“Khi con chim bay, nó không cần biết trời là gì, đâu là giới hạn. Nó chỉ bay. Trong bầu trời vô tận.” (Sợi Tơ Nhện – Cao Huy Thuần)

Hoa Đào Năm Ngoái

   Kim Trọng vừa thề non hẹn biển xong với Thúy Kiều thì được tin chú mất, phải về quê quán để hộ tang chú. Nửa năm sau, chàng trở lại vườn Thúy thì người yêu đã đi mất biệt, gia đình họ Vương tan nát, thềm cũ rêu phong, bóng người trước sau nào thấy. Như một giấc mơ, quá khứ tan biến. Sự sống duy nhất còn lại trong hiện tại là một nụ cười, như một linh hồn đã chứng kiến tình xưa:

                                                                                             Hoa đào năm ngoái còn vười gió đông

   Hoa đào năm ngoái? Nửa năm qua rồi, hoa ấy đâu phải là hoa năm ngoái? Xuân này là xuân năm nay, vậy thì hoa ấy phải là hoa năm nay. Luận lý thông thường là như vậy, nhưng cái thấy của Kim Trọng không phải là cái thấy của người luận lý. Đó là cái thấy của người từ chối không nhận hiện tại, không nhận sự việc xảy ra trước mắt. Với chàng, sự thật là ngày hôm qua. Sự thật ấy, có hoa đào chứng minh. Hoa đang cười, đúng là hoa năm ngoái. Cái cười ấy, từ năm ngoái đến năm nay chưa bao giờ dứt. Không phải hai nụ cười mà là một. Chỉ một nụ cười ấy thôi. Ai không tin chàng, hãy đọc cho kỹ chữ “còn” thần dịu trong câu thơ: không phải hoa đang cười mà là hoa còn cười. Cười từ năm ngoái cho đến năm nay, vẫn là một nụ. Như một linh hồn chung thủy chờ đợi người tái ngộ.

Tôi mượn câu thơ của Nguyễn Du, và mượn chữ “còn” xuất thần trong đó, không phải để bình về tâm trạng của chàng Kim mà để nói chuyện về thời gian. Ta cứ nghĩ thời gian là có thật, vì có hôm qua, hôm nay và ngày mai. Như một mũi tên, thời gian bay thẳng một đường, hôm qua là bắt đầu, ngày mai là điểm cuối. Có thật vật chăng? Chỉ cần anh Kim Trọng ngơ ngác trước cảnh hoang tàn là trong đầu anh lẫn lộn sau trước, hôm nay đi ngược lại hôm qua, năm nay ngược về năm trước, hiện tại quay ngược mũi tên. Có thật chăng thời gian có sinh có diệt, có điểm khởi đầu, có điểm kết thúc? Hoa đào của chàng Kim có sinh có diệt đâu, cái cười ấy không phân biệt hôm qua và hôm nay, không biết quá khứ khác với hiện tại. Ví thử, như trong một chuyện thần tiên, anh Kim Trọng ngủ một giấc trăm năm, khi trở lại vườn Thúy, vẫn cái cười ấy trăm năm trước chờ đợi anh. Và nếu anh ngủ một giấc ngàn năm, anh ngủ một giấc thiên thu, cái cười ấy vẫn thế. Bởi vì thời gian không phải nằm ở ngoài mà nằm trong đầu anh. Và bởi vì thời gian không phải là một đường thẳng mà là một vòng tròn. Hoa đào không sinh không diệt bởi vì hết diệt lại sinh, trong sinh đã có diệt, trong diệt đã có sinh, thành trụ hoại không, không có bắt đầu, không có chấm dứt, một vòng tròn thiên thu bất tận. Nơi cái vòng tròn ấy, đâu là quá khứ, đâu là tương lai? Cứ thử đi dạo một vòng quanh hồ: điểm đi cũng là điểm đến, không có đến không có đi. Thậm chí, ta có thể nói như một đại triết gia, Marc Aurèle, rằng anh Kim Trọng chỉ cần nhìn hoa đào ấy bây giờ, một lần thôi, là thấu biết suốt hoa đào cười từ vô cùng vô tận. Quá khứ, tương lai đều không có, chỉ còn cái khoảnh khắc chàng Kim nhìn hoa đào, hoa đào cười với chàng Kim. Chỉ có cái khoảnh khắc ấy là có thật. Cái khoảnh khắc ấy chứa đựng tất cả. Như thiền tông nói: thấy thiên thu trong khoảnh khắc, thấy cả vũ trụ trong một hạt cải.

  Thấy như vậy để làm gì? Đâu phải để bàn hươu tán vượn triết lý suông! Để sống. Không có quá khứ thì đừng quay đầu nhìn lui, vô ích. Không có tương lai thì đừng chờ đợi, hoài vọng, hứa hẹn, việc gì làm phải làm ngay. Không có tương lai thì cái chết cũng không phải chấm hết, nơi vòng tròn không có chấm hết, nơi chấm hết cũng là nơi lại sinh ra. Chỉ còn hiện tại. Nhưng coi chừng! Hiện tại cũng không có thật. Khi ta nói “hiện tại” thì hiện tại ấy đã đi qua rồi. Khi đồng hồ gõ 12 tiếng thì giờ thứ 12 không còn nữa, bởi vì cứ mỗi tiếng gõ là mỗi giây đã đi qua. Mở miệng ra nói “12 giờ” thì 12 giờ đã không còn là thật. Vậy sống với hiện tại là sống thế nào? Sống thế nào với một cái không có thật?

Vừa là đại hoàng đế, vừa là đại triết gia, vừa là nhà hành động, vừa là nhà suy tưởng, Marc Aurèle của Hy Lạp cổ đại có một phương pháp cụ thể. Ông vẽ một vòng tròn, tất nhiên là vẽ trong đầu, một vòng tròn nhỏ của hành động trong vòng tròn lớn mênh mông của thời gian. Ông khoanh tròn cái mà ta gọi là hiện tại và chia nó ra từng khoảnh khắc. Cũng giống như tai ta đang nghe một bản hòa âm – vòng tròn lớn – mà đầu biết thấy, biết tách ra từng nốt nhạc, đây là nốt đô, đây là nốt fa, mỗi nốt là một khoảnh khắc phải khoanh lại trong vòng tròn nhỏ. Khoanh tròn và chia hiện tại ra thành từng khoảnh khắc như vậy giúp người hành động tập trung chú ý nhiều hơn để đối phó với từng sự việc, hết sự việc này đến sự việc kia, như hết khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác. Ta nghe bản hòa âm thì hồn mải mê rong ruổi theo nhạc, nhưng người nhạc trưởng nghe dàn nhạc chơi thì biết một nốt đô nào đó đã hỏng, phải khoanh lại để sửa. Nói như thiền tông, nốt đô ấy làm hỏng cả thiên thu nhạc bởi vì cả thiên thu nhạc nằm trong nốt đô ấy. Hay như khi ta xem múa ba lê: ta mê man nhìn sóng lượn nơi những thân hình, nơi những đôi chân, nhưng người dạy múa biết khoanh tròn một gót hài để bắt phải sửa. Lại nói theo thiền tông, cả vũ trụ múa nằm nơi một gót hài, và một chút sai nơi một ngón chân làm hỏng cả vũ trụ múa.

Cuộc đời của chúng ta cũng giống như một màn múa, một bản hòa âm. Chỉ là những ngón chân, chỉ là những nốt nhạc tập hợp lại. Chỉ là những khoảnh khắc, có khi vui, có khi buồn, và đầy khó khăn, thách đố, đầy vấn đề. Khoanh tròn từng vấn đề một, đừng để nó lẫn lộn trong mớ bòng bong quá khứ với tương lai, và giải quyết trong tỉnh táo. Nhờ vậy, hiện tại vốn là không có mà thành có, vốn là không thật mà thành thật. Nó thành có, thành thật, nó có bề dày, bởi vì ta có ý thức về nó, ý thức của ta tạo ra nó. Ý thức rằng ta đang sống với nhà ngươi đây, trong từng khoảnh khắc, chỉ với nhà ngươi đời ta mới có ý nghĩa, chỉ với nhà ngươi ta mới thật sự có tự do. Với nhà ngươi, cả thời gian, cả vũ trụ nằm trong bàn tay ta. Ngoài cái vòng tròn nhỏ của nhà ngươi, đâu biết cái chết sẽ đến lúc nào?

Chính thế, chính vì cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, và chính vì cái chết chỉ có ý nghĩa khi nó khởi đầu một cuộc sống tốt hơn, hãy sống như thử bao giờ cũng là khoảnh khắc cuối cùng và hãy yêu cuộc đời như một ân huệ tối thượng mà ta phải đền đáp bằng tất cả tốt đẹp, thánh thiện trong lòng.

 

   Nói như thế không phải là ta không biết cái vòng tròn sinh lão bệnh tử ấy là khổ. Đến một tuổi nào đó, nhìn lại cuộc đời mình, nhìn mọi người chung quanh, ai có chút suy nghĩ đều không khỏi chạnh lòng về cái vô lý của kiếp người. Sáng suốt mà nói, cuộc đời không có ý nghĩa, không có mục đích gì cả. Như là một thành phần của thiên nhiên, con người cũng như mọi thành phần khác của thiên nhiên, sinh ra là để già, nghĩa là để sống từng ngày, từng ngày. Chỉ là những ngày rất tròn trôi qua, bắt đầu rồi chấm dứt ở một khoảnh khắc nào đó không rõ trong đêm. Văn minh muốn thuyết phục ta rằng ta đi đến một cái gì, một mục đích xa xôi nào đó. Sự thực, mục đích duy nhất của con người là sống, là sống mỗi ngày, và ta đạt được mục đích ấy khi ta sống hết mọi giờ của một ngày.

    Nhưng đó là con người của thiên nhiên. Con người còn là con người xã hội, của những xã hội riêngbiệt, và mỗi xã hội đều có những ước muốn, những mục đích riêng. Con người xã hội, vì vậy, cũng tưởng tượng ra cho mình một thời gian đi thẳng, một tương lai nhắm đến. Ngoài tương lai của từng cá nhân lại còn tương lai của tập thể. Tương lai riêng, tương lai chung, trăm mối bận tâm khiến con người lúc nào cũng sống trong dự phóng tương lại mà quên rằng đời sống chỉ có thực trong hiện tại. Ta không sống mà chỉ chạy theo hụt hơi cái bóng mình ở đàng trước.

   Vậy thì làm sao giải quyết mâu thuẫn giữa con người thiên nhiên và con người xã hội, giữa thời gian vô thời gian của thiên nhiên và thời gian một chiều của lịch sử văn minh? Thì vẽ vòng tròn với Marc Aurèle! Vòng tròn lớn là thiên nhiên vô thời gian, vòng tròn nhỏ là khoảnh khắc của hành động. Và sống, chính là sống trong vòng tròn nhỏ đó. Sống trọn vẹn, sống hết mình, sống không nhìn lui, sống không nhìn tới, ta với khoảnh khắc là một, ta với vấn đề phải giải quyết là một. Hãy đừng muốn cái gì khác ngoài cái ta đang có, và hơn thế nữa, thương cái đó, yêu cái đó, amor fati như chữ nghĩa của ông Nietzsche triết gia. Nhưng sống như thế mà vẫn không quên cái vòng tròn lớn của thiên nhiên. Không quên rằng hết ngày là đêm, hết đông là xuân, hoa đào ấy vẫn là hoa đào ấy, không có gì phải vui, không có gì phải buồn, không có gì sinh, không có gì diệt, không có gì sống, không có gì chết, bốn mùa tuần hoàn, muôn triệu ngôi sao múa lượn trên thiên hà mà không ngón chân nào chạm ngón chân nào. Là hạt cải, ta sống bùng chất sống trong hạt cải. Nhưng là hạt cải, hạt cải cũng biết luật của vũ trụ, của thiên nhiên, chỉ mọi lên cây xanh đúng mùa, đúng tháng.

   Trong đời sống máy móc này đây, hãy sống với một chút triết lý và một chút thơ. Hãy có một chút rùng mình khi mặt trời chìm trong nước biển, khi con chim thốt nhiên vẫy cánh kêu lên một tiếng trước hoàng hôn. Khi nhìn trăng, hãy nghĩ như Lý Bạch: trăng ngày nay đã chiếu người thời xưa, người thời nay đang ngắm trăng thời xưa. Cũng trăng chiếu, cũng người ngắm, cổ cũng vậy mà kim cũng vậy, vòng tròn lớn luôn luôn là thế. Hãy sống trọn vẹn trong vòng tròn nhỏ và hãy cuối đầu trước vòng tròn lớn vô thời gian mà ta không bao giờ hiểu hết được nhiệm màu.

   Và hãy nói với chàng Kim Trọng: anh chính là tôi, tôi chính là anh, tôi cũng đã từng nhìn hoa đào ấy như anh, đã từng như anh nhớ nhung, mòn mỏi. Cả nhân loại này, từ vô thủy cho đến vô chung, tất cả đều là anh, đều là tôi, đều mòn mỏi, nhớ nhung không có gì khác, đều biết biệt ly là khổ như nhau. Hoa đào mà anh đang nhìn cười một nụ cười muôn thuở, vì tương tư vẫn là như thế từ vô cùng đến vô tận. Anh là hạt cải chứa đựng cả vũ trụ khổ. Nhưng anh hãy khoanh một vòng tròn nhỏ lại mà sống. Cuộc đời, thưa anh, là vậy: như một tấm vải dệt bằng buồn thảm và vô lý, nhưng trên đó ta vẫn có tự do thêu những nét đỏ xanh, thêu một nụ cười.

Tác giả và tác phẩm: Tác giả Cao Huy Thuần là giáo sư đại học Pháp đã nghỉ hưu. Ông dạy học, viết sách, tham gia thường xuyên các hoạt động văn hóa trong nước từ khi chủ trương tờ tuần báo Lập Trường (1964) ở Huế. Sợi Tơ Nhện là tuyển tập tản văn như lời tâm tình của tác giả với những chuyện xưa, chuyện nay; nhịp điệu du dương trầm bổng dẫn dắt tâm trí người đọc qua mọi cung bậc cảm xúc.     

Lược trích: Quỳnh Ly – Bookademy

Hình ảnh: Quỳnh Ly

--------------------------------------------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy

(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ "Tên tác giả - Bookademy." Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.

 

 

      


Xem thêm

“Sợi Tơ Nhện” là một truyện ngắn đậm chất Phật giáo, nơi các biểu tượng tâm linh được sử dụng để phản ánh bản chất con người và luật nhân quả. Nhân vật Đức Phật trong truyện là hiện thân của lòng từ bi, là người ban phát cơ hội cho những linh hồn lầm lạc. Ngược lại, Kandata – tội nhân ở địa ngục – là hình ảnh tiêu biểu của những người chỉ biết nghĩ cho bản thân.

Sợi tơ nhện ở đây là biểu tượng đầy tính biểu cảm. Đó là cơ hội cứu rỗi do lòng từ bi ban tặng, là sợi dây mỏng manh nối giữa khổ đau và giải thoát. Hành động từng tha chết cho con nhện của Kandata được Đức Phật ghi nhớ – điều này thể hiện lòng từ bi và trí tuệ toàn giác, một đặc trưng trong tư tưởng Phật giáo. Tuy nhiên, cơ hội không miễn phí hay vĩnh viễn – nó phải được duy trì bằng sự giác ngộ và chuyển hóa trong tâm hồn.

Cảnh tượng Kandata cố gắng trèo lên nhưng lại la hét, không muốn ai khác bám theo, chính là điểm thắt của câu chuyện. Hành động này thể hiện bản chất chưa thay đổi của ông – vẫn là con người vị kỷ, chưa thực sự hối cải. Và do đó, cơ hội được giải thoát cũng tan biến như chính lòng vị tha không tồn tại trong ông.

“Sợi Tơ Nhện” là một truyện ngắn ngụ ngôn của nhà văn Nhật Bản Akutagawa Ryunosuke, kể về một cơ hội cứu rỗi bị đánh mất bởi lòng ích kỷ. Nhân vật trung tâm, Kandata, là một tội nhân bị đọa vào địa ngục vì những tội ác mình đã gây ra. Tuy nhiên, nhờ một hành động nhỏ – tha mạng cho một con nhện – Đức Phật đã ban cho ông cơ hội được thoát khỏi địa ngục bằng cách thả xuống một sợi tơ nhện.

Tình tiết đáng chú ý nhất là phản ứng của Kandata khi thấy người khác cùng trèo theo mình. Thay vì chia sẻ con đường hy vọng, ông lại lo sợ mất phần và đẩy người khác ra khỏi cơ hội sống sót. Chính sự ích kỷ ấy đã khiến sợi tơ đứt, và ông rơi xuống lại địa ngục. Đây là một bài học sâu sắc: đôi khi, cơ hội không bị tước đoạt bởi thế lực bên ngoài, mà chính là bởi lòng người.

Akutagawa đã dựng nên một tình huống mang tính biểu tượng cao: sợi tơ – vật thể mong manh nhưng đầy kỳ vọng – đại diện cho ân huệ, sự tha thứ và lòng từ bi. Nhưng nó cũng chỉ bền vững khi người được cứu có đủ nhân cách để giữ lấy nó. Câu chuyện khéo léo lên án sự ích kỷ vốn rất phổ biến trong bản chất con người, đồng thời nhấn mạnh rằng cơ hội chỉ thuộc về những ai biết vượt qua cái tôi cá nhân để hướng đến điều thiện.

Tác phẩm “Sợi Tơ Nhện” của Akutagawa Ryunosuke là một truyện ngắn mang màu sắc triết lý sâu sắc, ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa về lòng từ bi, sự cứu rỗi và bản chất con người. Lấy bối cảnh ở địa ngục, nơi tăm tối và đau khổ cùng cực, nhà văn đã khéo léo gieo vào đó một sợi hy vọng – chính là sợi tơ nhện do Đức Phật buông xuống để cứu rỗi một tội nhân tên là Kandata.

Truyện xoay quanh một tình huống đơn giản: Kandata – một kẻ từng gây nhiều tội ác trong cuộc sống – đang bị đọa đày dưới địa ngục. Nhưng Đức Phật nhớ lại rằng có một lần trong đời, ông đã không giết một con nhện nhỏ trong rừng, và từ đó, Phật quyết định trao cho ông một cơ hội thoát nạn. Một sợi tơ nhện mỏng manh được thả từ thiên giới xuống địa ngục, và Kandata đã chộp lấy nó với hy vọng trèo lên thoát thân. Nhưng khi phát hiện ra nhiều tội nhân khác cũng đang bám theo sợi tơ, ông lập tức hét lên, ra lệnh không cho ai trèo theo mình. Chính sự ích kỷ ấy khiến sợi tơ đứt, và Kandata rơi trở lại địa ngục.

Câu chuyện tuy ngắn nhưng súc tích, phản ánh rõ nét quan điểm của Phật giáo về lòng từ bi, về nghiệp báo, cũng như tội phúc. Hành động không giết con nhện của Kandata, dù rất nhỏ, lại là tia sáng le lói cho thấy một phần thiện trong ông. Nhưng chính vì sự ích kỷ và thiếu lòng vị tha sau đó, ông đã đánh mất cơ hội duy nhất để được cứu chuộc. Đây là thông điệp thâm thúy về bản chất con người: cơ hội cứu rỗi chỉ đến với ai thực sự thay đổi, và lòng tốt thật sự phải được nuôi dưỡng từ nội tâm, chứ không phải là khoảnh khắc nhất thời.