Bây giờ là năm 2021. Giả sử thế giới là một lớp học khổng lồ, một vị thiên chúa nào đó đang đứng trên bục giảng. Người thầy toàn tri ấy hỏi:

- Ai có thể cho ta biết vật lý hạt nhân là ngành học gì, đối tượng nghiên cứu và ứng dụng của nó là gì được không?

Sẽ có những cánh tay - tự tin có, rụt rè có - đưa lên. Họ là những học sinh xuất sắc, họ là tầng lớp trí thức, đa phần là các nhà nghiên cứu vật lý học và hóa học. Thầy không gọi ai lên trả lời mà hỏi tiếp:

- Ai biết về vũ khí hạt nhân nào?

Lần này, nhiều cánh tay mạnh mẽ giơ lên. Họ cũng là những học trò xuất sắc. Nhiều người là nhà nghiên cứu chế tạo vũ khí quốc phòng. Nhiều người là các tướng lĩnh có tên tuổi. Thầy vẫn không gọi ai trả lời, tiếp tục hỏi:

- Các sinh vật sống sẽ thế nào trước những thảm họa hạt nhân?

Và chúng ta nghe đâu đó tiếng rì rào của những bông cúc có phần lá quặt hết xuống dưới do bị nhiễm phóng xạ từ một tai nạn liên quan đến hạt nhân. Những tiếng rú, tiếng gầm, tiếng hí cũng lần lượt vang lên. Chó mèo đột biến, ngựa ba chân, trâu bò một mắt cũng có thể là những học sinh hiểu biết chứ. Rồi những cánh tay cũng được giơ lên. Những cánh tay người với màu sắc và hình thù kì lạ như thể nó không phải của con người mà là của một con quái vật trong các câu chuyện cổ Hy Lạp, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc... Trong một lớp học lý tưởng nơi mà tất cả học sinh đều bình đẳng với nhau và đều có quyền phát biểu ý kiến như thế này, nếu để ý, ta sẽ tiếp cận được với vô vàn câu trả lời độc đáo chỉ với một câu hỏi duy nhất. Lần này, thầy giáo vẫn tiếp tục không gọi ai đứng lên phát biểu. Nhưng thầy cũng chẳng đặt thêm câu hỏi nào. Thầy đã khóc. Một giọt nước mắt nặng nề đáp xuống nền đất bẩn thỉu. Và câu chuyện giả tưởng của chúng ta cũng kết thúc tại đây.

Năm 2015, giới văn nghệ sĩ và toàn thể những người quan tâm đến văn chương chứng kiến giải thưởng Nobel Văn học danh giá được trao cho một nhà văn người Belarus: Svetlana Alexievich. Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố:”Giải Nobel Văn học 2015 được trao cho Svetlana Alexievich để tôn vinh những dòng văn phức điệu của bà. Văn của bà là tượng đài tri ân sự đau khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta. Những dòng văn phi thường giúp nhân loại hiểu biết sâu sắc hơn về cả một thời đại của thế giới - thời đại Liên bang Xô Viết”. Hai tác phẩm đạt giải của bà là “Chiến tranh không có một gương mặt phụ nữ” và “Lời nguyện cầu từ Chernobyl”.

Cùng điểm qua vài nét về “kẻ giết người tàng hình” được Svetlana mô tả trong tác phẩm của bà nào. Thảm hoạ hạt nhân Chernobyl xảy ra vào 1 giờ 23 phút 58 giây ngày 26/4/1986, khi một loạt vụ nổ diễn ra khiến lò phản ứng số 4 của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ở Pripyat, Ukraina (Liên Xô) bị phá hủy. Đây được coi là thảm họa trầm trọng nhất trong lịch sử năng lượng hạt nhân. Vụ nổ phát ra lượng phóng xạ lớn gấp 400 lần so với quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima. Khoảng 190 tấn chất phóng xạ đã bay vào khí quyển. Các đám mây bụi phóng xạ lan rộng ra nhiều vùng phía tây Liên Xô, Đông và Tây Âu, Scandinavie, Anh, và đông Hoa Kỳ. Nhiều vùng rộng lớn thuộc Ukraina, Belarus và Nga bị ô nhiễm nghiêm trọng, phải sơ tán và tái định cư cho hơn 336.000 người; khoảng 60% đám mây phóng xạ đã rơi xuống lãnh thổ Belarus.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, phát xít Đức đã phá hủy 619 ngôi làng của Belarus, tàn sát người dân ở đó. Thảm họa nổ lò phản ứng hạt nhân Chernobyl đã xóa sổ 485 ngôi làng và khu dân cư của nước này. Trong số đó 70 ngôi làng bị chôn lấp dưới lòng đất vĩnh viễn. (Trích từ mục Chernobyl trong Bách Khoa Thư Belarus)

Nếu cứ buộc tôi phải viết về cuốn sách này theo một trình tự nào đó thật hợp lý, một bố cục chặt chẽ, một kết cấu mạch lạc, thú thật, tôi khó có thể viết cho đàng hoàng được. Những giọng nói cứ ong ong trong đầu. Họ kể câu chuyện của mình, câu chuyện của thời đại. Những người bình thường. Ở đây, ta không có nhân vật chính nên tôi cũng chẳng thể viết một bài review kiểu “lần theo bước chân” của bất kỳ ai cả. Những người nào đã từ đọc cả hai tác phẩm đạt giải Nobel năm 2015 của Svetlana hẳn sẽ hiểu cảm giác này. Tác giả, thay vì chỉ kể một câu chuyện, đã để rất nhiều câu chuyện. Trước khi là một nhà văn, bà là một nhà báo. Để làm nên hai tác phẩm để đời kia, bà đã phỏng vấn rất nhiều người, ghi chép lượm lặt các câu chuyện và tổng hợp chúng, biên tập chúng, đưa chúng vào trang sách. Tác phẩm như một cuốn sổ ghi chép của một ký giả cần mẫn. Có rất nhiều câu chuyện trong đó. Từng người, từng người một hiện ra trong trang sách và kể câu chuyện của mình. Hệt như một vở nhạc kịch có nhiều phân cảnh. Các nhân vật cứ lần lượt bước ra và cất lên tiếng nói. Cái đặc sắc của lối viết tác phẩm này nằm ở chỗ đó. Ta có thể mường tượng rất nhiều về mối liên hệ giữa hiện thực và văn chương, nhưng ở những tác phẩm của Svetlana, mối liên hệ này trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Những câu chuyện cảm động, gây ấn tượng sâu sắc với độc giả có thể được kể bởi bất kỳ ai, không cứ phải là một nhà văn nổi tiếng. Chỉ riêng việc Svetlana lắng nghe và ghi chép câu chuyện của hàng ngàn con người đã làm tôi xúc động và nể phục. Nhưng việc bà đưa những câu chuyện riêng lẻ vào một tác phẩm hẳn hoi, biến chúng thành một chỉnh thể văn chương mới là thứ đã làm thế giới xúc động, là lý giải đáng thuyết phục cho giải thưởng Nobel Văn chương danh giá.

Sự hủy hoại của hạt nhân đối với cơ thể con người quả là một điều đáng sợ. Những người lính được cử đi Chernobyl ngay khi thảm họa diễn ra - phần lớn - đã bị bỏng rất nặng. Những vết bỏng đáng sợ hơn vết thương của đao kiếm súng đạn nhiều. Nó không chỉ gây ra nỗi đau đơn, sự ngứa rát khó chịu mà còn hủy hoại nhân dạng con người. Những bệnh nhân bỏng phải chịu nỗi đau vì bị kì thị, khì phải thấy hình ảnh xấu xí của mình trong gương. Họ phải đấu tranh với cơn đau, với ánh nhìn kỳ thị e dè của mọi người và với mặc cảm của chính mình. Những người lính Chernobyl năm ấy xứng đáng được tôn vinh là những anh hùng vì họ phải chịu “vết bỏng hạt nhân” - thứ kinh khủng hơn bỏng thường gấp trăm ngàn lần - để ngăn chặn một thảm họa cấp quốc gia, cấp nhân loại. Ngăn chặn một con quái vật vô hình. Những người lính trở về từ tai nạn hạt nhân ấy chỉ “bình thường” được mấy ngày ngắn ngủi, sau đó, họ bắt đầu “biến đổi”.

Anh đi ngoài hai mươi đến ba mươi lần một ngày. Anh đi ngoài ra máu và chất nhầy. Da anh bắt đầu có những vết rạn ở hai cánh tay và cẳng chân. Người anh đầy những chỗ nhiễm trùng và mưng mủ... Tôi thay chăn hàng ngày cho anh, và ngày nào cũng vậy, đến tối tấm chăn ấy thấm đầy máu.

Từ đầu đến cuối, vỏn vẹn mười bốn ngày - “mất chừng ấy thời gian để một con người đi đến cái chết”. Cái chết ập đến - đầu tiên - với những con người quả cảm nhất, đáng khâm phục nhất.

Khi gặp tang sự, người ta vẫn thường an ủi nhau cố sống tiếp cho một ngày mai tươi sáng, nhưng mà tương lai nào cho những người ở lại? Những người tiếp xúc với “bệnh nhân” nhiễm độc phóng xạ cũng bị xem như những nguồn bệnh biết đi, bởi tiếp xúc là con đường ngắn nhất để lây nhiễm phóng xạ. Như những cái xúc tu của con quái vật Kraken ẩn mình dưới làn nước sẵn sàng vồ bắt lấy bất kỳ tàu thuyền nào đến gần, lượng chất phóng xạ cũng dễ dàng tấn công bất kỳ ai lại gần nó. Người lính bị nhiễm chất độc phóng xạ từ chính hiện trường vụ tai nạn, rồi họ lại truyền nhiễm chính chất độc hại vô hình đó cho bất kỳ ai tiếp xúc với mình. Chất độc phóng xạ khiến những người tiếp xúc ấy bị nhiều căn bệnh nan y, tàn phá đến cả bộ gen của họ và khiến họ sinh ra những đứa trẻ dị dạng. Thảm họa này làm tôi nhớ đến nỗi đau mang tên “chất độc màu da cam” ở chính đất nước mình. Tôi không hay nhìn thấy những nạn nhân của chất độc ấy (có lẽ vì họ sinh sống ở một khu riêng), nhưng một khi đã nhìn thấy rồi thì không thể nào quên được. Một khi đã bắt gặp, tôi cứ phải nhìn họ, ánh mắt tôi xoáy vào những vết lở loét, những điểm dị dạng. Tôi thương cảm, thật sự, nhưng tôi cũng sợ hãi. Phải rồi, tôi là một con người yếu đuối và vị kỷ. Hẳn là những cái nhìn săm soi độc ác ấy của tôi đã tổn thương họ rất nhiều. Lúc ấy, tôi còn quá non trẻ và dại khờ để không nhìn họ, không nhăn nhó khi thấy những vết lở loét, không lảng đi khi họ vô tình đến gần tôi. Đau đớn lắm chứ, tủi hổ lắm chứ! Những thảm họa hóa học và hạt nhân tạo ra hàng loạt những người đau đớn và tủi hổ với chính sự tồn tại của mình. Những ước mong rất đỗi bình thường bỗng trở nên xa xỉ. Những con người ấy không muốn để người khác thấy hay bàn tán về ngoại hình của mình. Họ như mất đi quyền được đi đó đi đây. Những người “dính líu” đến Chernobyl, họ thậm chí còn sợ cả việc sinh con. Có lẽ chưa bao giờ một con người có thể khiếp sợ việc sinh con đến thế! Họ sợ sinh ra một hình hài thiếu khuyết, họ sợ việc mang đến cho cuộc đời những sinh linh đau khổ, họ sợ việc nhìn thấy một đứa trẻ dị tật khóc lóc vì cơn đau “Chernobyl”. Ai mà muốn con cái mình phải trải qua những chuyện đó. Người ta khóc thương cho những đứa trẻ yểu mệnh chết lưu trong bụng mẹ, những đứa trẻ chỉ sống được có vài giờ sau khi được sinh ra và cả những đứa trẻ lớn lên với bệnh tật. Có những nỗi đau mà y học chưa thể xoa dịu.

Trong chuỗi tự sự đa tác giả mà Svetlana đã viết, có một câu chuyện về một người lính mà tôi đặc biệt nhớ ghi. Ông có một cậu con trai nhỏ. Thằng bé xem cha mình như một người hùng, ông luôn là thần tượng lớn của cuộc đời cậu. Khi trở về từ Chernobyl, ông cho cậu cái mũ mình thường đội. Cậu bé thích cái mũ vô cùng, đi đâu cũng mang ra đội. Một thời gian sau, cậu bị chẩn đoán có khối u trong não. Đây là câu chuyện do chính người lính - người cha ấy - kể lại. Không ai biết ông đã dằn vặt, đau khổ thế nào trước sự ra đi của con trai do khối u trong não. Mọi người bảo đó là do hạt nhân, cho Chernobyl, do mấy người kĩ sư vô trách nhiệm... Nhưng người cha ấy, người anh hùng ấy không thể nào ngừng nghĩ rằng chính ông đã giết chết con trai mình. Trở về từ Chernobyl, ông sống như một mối họa cho chính những thành viên trong gia đình mình. Ông hẳn nghĩ mình nên tự cách ly, tự rời xa những người ông yêu nhất để tránh làm tổn thương họ. Lẽ ra ông nên từ chối khi con trai muốn có chiếc mũ của mình, lẽ ra ông không nên ôm hôn nó quá nhiều như thế, lẽ ra ông nên đi đâu đó thật xa hay ở lại Chernobyl hẳn luôn cũng được... Có giai đoạn nào trong lịch sử nhân loại mà tình yêu cũng là tội lỗi? Có khi nào những cái ôm hôn, những món quà nhỏ lại trở nên đáng sợ đến như vậy? Năm 1986, một năm đau buồn trong một thế kỷ đau buồn.

Chernobyl làm đảo lộn cuộc sống của con người những vùng bị ảnh hưởng bởi vụ nổ nhà máy. Người ta buộc phải di tản. Người ta buộc phải xa rời mảnh đất chôn nhau cắt rốn, mảnh đất mà tổ tiên họ đã gìn giữ và truyền thừa qua biết bao thế hệ. Tất cả chỉ vì một thứ mà họ không thể nhìn thấy được. Thậm chí có những người dân không được “thấy” nó qua các thiết bị đo lường vì họ không được phát cho những thứ ấy. Mà giả sử có được cho xem đi chăng nữa, nhiều người cũng chẳng hiểu. Cái gì là hạt nhân, cái gì là rơn-gen cơ chứ? Họ vẫn sống sờ sờ ra đấy kia mà. Mấy con bò nhà họ vẫn ăn cỏ, vẫn đi đi lại lại, vẫn dùng lưỡi liếm cho đàn con nhỏ của chúng. Thế mà người ta lại bảo rằng họ chẳng thể nào uống sữa từ chúng được nữa. Người dân vùng ảnh hưởng phải di tản, những người không nằm trong diện di tản thì không thể sử dụng nông sản của họ như bình thường được nữa. Họ làm theo trong sự khó hiểu. Làm sao mà những người nông dân có thể nghi ngờ đất đai của họ sẽ làm hại họ? Nỗi nghi hoặc ấy vô lý hệt như câu chuyện người mẹ hiền đột nhiên biến thành phù thủy và ăn tươi nuốt sống con đẻ của mình vậy. Nhưng thảm họa Chernobyl đẩy những người nông dân vào mối nghi hoặc ấy. Họ buộc phải tin rằng đất Mẹ sẽ làm hại họ, vì Mẹ đã nhiễm phóng xạ nặng nề. Cesium và strotium có đầy trong đất đai và nông sản.

Thậm chị vodka cũng là của chúng tôi. Tất nhiên “của chúng tôi” có nghĩa là từ Chernobyl. Rượu vodka có vị cesium và strontium.

Thảm họa hạt nhân Chenobyl đã đến đến nhiều sự khủng hoảng trong xã hội. Đầu tiên, những người lính khi đến “hiện trường” đầu tiên không được trang bị đầy đủ dụng cụ bảo hộ. Họ ăn mặc hệt như những lính cứu hỏa thông thường để đi đến nơi diễn ra một thảm họa cấp nhân loại. Các thông số về mức độ nhiễm phóng xạ cũng không thực sự được truyền tải rộng rãi đến những người lính, người thân của họ cũng như dân thường thuộc khu vực chịu ảnh hưởng từ vụ nổ. Sự thiếu thốn vật chất này đã dấy lên những hiềm nghi của nhiều người đối với công tác xử lí hậu quả Chernoyl. Họ nghĩ mình bị tách ra khỏi sự thật và họ sợ hãi điều đó. Đôi khi những người lính nốc thật nhiều vodka để giữ thần trí mình đủ mạnh mẽ để tiếp tục nhiệm vụ.

Không chỉ thế, ngay cả công tác di tản người dân của “vùng đất Chết” đi đến nơi khác cũng vấp phải nhiều sự khó khăn. Làm sao người ta có thể thuyết phục những người dân không biết tí gì về thảm hạt nhân phải tự nguyện đi khỏi mảnh đất của ông bà họ được? Chẳng ai nhìn thấy được cái chất phóng xạ bay khắp nơi trong không khí. Chẳng ai thấy điều gì bất thường từ mấy con bò béo mập hay mấy củ khoai tây tròn lẳn. Tất cả mọi người phải trốn chạy một tên sát nhân mà họ không bao giờ nhìn thấy được. Nhiều người chống lại những người lính, trốn vào rừng, gào thét hay van xin đủ kiểu để những người lính cho họ được ở lại. Công tác di tản, như vậy, đã vấp phải rất nhiều khó khăn. Những người từ Chernobyl sau khi di tản cũng phải đối mặt với sự kỳ thị, xa lánh của người dân ở nơi ở mới. Họ bị xã hội ghê sợ. Đôi khi, những người dân thường vô tội bị xem là một hiểm họa diện rộng hay một khối độc biết đi. Điều đáng buồn là định kiến trên hoàn toàn có căn cứ khoa học xác thực chứ không phải chỉ là sự phân biệt vô căn cứ. Thật sự đã có những trường hợp người từ Chernobyl “lây bệnh” cho những người xung quanh mình, như câu chuyện về người bố và cậu con trai có khối u trong não đã kể ở trên. Họ khó lòng sống một cuộc sống như “người bình thường”. Họ bị kỳ thị, họ tránh đi đến nơi đông người và hầu như chỉ có thể cưới những người “Cherobyl” giống họ. Tệ hơn, người từ Chernobyl sợ việc sinh con. Các vấn đề xã hội liên quan đến việc thích nghi với nơi ở mới đã diễn ra đa dạng và phức tạp như thế - những vấn đề khó mà giải quyết cho triệt để được. Người ta phải đối mặt với một tên khủng bố vô hình.

Sự kiện Chernobyl đã đẩy chính quyền thời bấy giờ vào thế khó. Nó làm nảy sinh rất nhiều vấn đề xã hội nan giải và thực sự đã gây ra một cuộc khủng hoảng Chernobyl diện rộng trong quần chúng nhân dân. Sự kiện này cũng thu hút báo giới nước ngoài, đặc biệt là những quốc gia mâu thuẫn với Liên Xô về thể chế chính trị.

Nỗi đau Chernobyl vẫn kéo dài đến ngày nay. Nó ánh lên trong những con người ốm yếu dị tật, trong cỏ cây, đất đai, muông thú. Lớp học giả tưởng ở đầu truyện của chúng ta vẫn chưa kết thúc, nó vẫn ở đó, vẫn hàm chứa vô vàn câu hỏi bỏ ngỏ, và mọi học sinh trong lớp học ấy sẽ phải tìm kiếm câu trả lời của mình. Họ sẽ luôn phải hoài nghi, phải suy tư thật nhiều về nỗi bất hạnh, về sự mất mát, về sự cảm thông và về cả phương cách để chữa lành tất cả mọi đớn đau ấy.

 

 

Tác giả: Hoàng Anh

--------------------------------------------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy

Bạn đam mê viết lách, yêu thích đọc sách và muốn lan tỏa văn hóa đọc tới cộng đồng của YBOX.VN? Đăng ký để trở thành CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv

 

 

 

Xem thêm

Đây là quyển sách tổng hợp những lời kể mà tác giả ghi lại khi phỏng vấn những người dân sau thảm hoạ nổ lò phản ứng hạt nhân tại Chernobyl. Để viết “Lời nguyện cầu từ Chernobyl,” tác giả Svetlana Alexievich đã thực hiện những cuộc phỏng vấn với khoảng 500 người có liên quan trực tiếp đến vụ nổ lò phản ứng số 4 của Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl (ngày 26/4/1986). Suốt 3 năm ròng, bà đã đi khắp Chernobyl, phỏng vấn những công nhân làm việc ở nhà máy điện, các nhà khoa học, các quan chức của đảng cũ, các bác sỹ, những người lính, các phi công lái trực thăng, thợ mỏ, những người tị nạn, những người dân tái định cư. Tất cả họ đều có những số phận khác, nghề nghiệp khác, tính khí khác nhau, nhưng Chernobyl là nội dung chính trong thế giới của họ. Thảm họa này đã xóa sổ 485 ngôi làng và khu dân cư của Belarus, trong đó, 70 ngôi làng bị chôn lấp vĩnh viễn dưới lòng đất. 2,1 triệu người dân Belarus (khoảng 700.000 người trong số đó là trẻ em) sống trên những vùng đất nhiễm phóng xạ. Sau thảm hoạ, những người vợ mất chồng, cha, anh, những đứa con mang dị tật, những người dân bị tước đoạt cuộc sống, bị xua đuổi ngay trên chính mảnh đất của mình, mà đau đớn hơn là họ không được biết chuyện gì đang xảy ra, những mảnh đất, quần áo, động vật, cây cối đều bị nhiễm phóng xạ, lượng phóng xạ mà họ phải hứng chịu,... Tất cả đột ngột ập đến, bắt họ phải tuân theo ngay lập tức mà không có thời gian thích ứng, để rồi họ, cuối cùng vẫn chỉ là nạn nhân, mà nạn nhân của vụ nổ phóng xạ, của chính quyền, hay của chính đồng loại?

''Lời cầu nguyện từ Chernobyl '' là cuốn nhật ký về thảm họa ngày 26 tháng 4 năm 1986, khi lò phản ứng hạt nhân số 4 ở Chernobyl bị nổ. Viết cuốn sách không chỉ với tư cách là nhà văn, nhà báo, trên hết, tôi thấy bà viết với tư cách là người quan sát sự sống- cái chết trên mảnh đất này với một thái độ hết sức chân thật đến từng chi tiết. Vì những nỗi lo sợ, bàng hoàng, nỗi đau mất mát và những rào cản khác, nó khiến cho sự thật có thể bị trôn vùi và có thể mãi mãi là bí ẩn với thế giới. Tôi vô cùng khâm phục tác giả khi bà đã không ngại nguy hiểm bước chân lên vùng đất - có thể khiến cho người đến đó nhiễm phóng xạ sau 10 năm- để hỏi các nhân chứng lịch sử và viết lên cuốn sách trên. Bà viết cuốn sách với sự cẩn thận rất cao, chắt lọc từng li từng tí tư liệu một cách hiệu quả để từ đó bà trình bày nó thật hữu ích trên từng trang sách đến với bạn đọc. Bà viết cuốn sách một cách chân thực về sự thật tàn khốc trên mảnh đất nơi đây, tuy nhiên cuốn sách vẫn chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc. Thông qua cuốn sách, tác giả muốn gửi tới mọi công dân trên thế giới này một lời cảnh báo, cảnh tỉnh sâu sắc rằng: Bất cứ nơi đâu trên thế giới, những phát minh khoa học -kĩ thuật hiện đại cũng có thể biến thành thảm họa đe dọa cuộc sống của người dân, khiến nơi đó vĩnh viễn không bao giờ trở về như trước được nữa.

Đêm một ngày cuối tháng 4 năm 1986, lò phản ứng số 4 của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl tại Liên Xô (nay thuộc Ukraina) bị nổ. Vì đang trong thời kì chiến tranh lạnh với Mỹ, các nhà lãnh đạo của Liên Xô quyết định dấu đi mọi chuyện. Nhưng do lượng phóng xạ cao và không có tường chắn, những đám mây phóng xạ bay tới châu Âu. Hậu quả về tính mạng và của cải của thảm họa không thể tính toán được và thảm họa của Chernobyl là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết sau này. Lời nguyện cầu từ Chernobyl là tác phẩm của nhà văn đoạt giải thưởng văn chương Nobel năm 2015 Svetlana Alexievich. Để ghi lại bi kịch của từng nạn nhân nói trên, tác giả – đã để ra thời gian 10 năm đi phỏng vấn khoảng 500 nạn nhân vụ nổ. Mỗi câu chuyện bộc lộ sự đau khổ, sự mất mát, sự sợ hãi, nỗi giận dữ, cảm thức bất an mà mỗi người kể cùng với gia đình họ đã trải qua. Do nội dung là những chứng từ có thực, phản ánh mọi khía cạnh của thảm họa, từ vụ nổ, nguyên nhân, hậu quả cho đến cách đối phó trong lúc và sau vụ nổ của các quan chức, nên tác phẩm đóng vai trò bản cáo trạng lên án chế độ Liên Xô cũ. Trong khi khám phá những dữ liệu cũng như các cung bậc cảm xúc của con người xung quanh thảm họa Chernobyl, bạn cũng được trải nghiệm sự độc đáo của tác giả qua cách xây dựng tác phẩm thuộc thể loại văn chương phi hư cấu. Svetlana Alexievich đã cho thấy rằng bản thân cuộc sống có những chất liệu giàu tính văn chương, nhưng để phát hiện ra những chất liệu đó là điều mà chỉ những tài năng lớn mới có thể làm được.

Hôm nay ngồi nghĩ, sao trong chuỗi 26 ngày của mình chưa có bài review nào về tác phẩm liên quan đến chủ đề chiến tranh hay những sự kiện lớn trong lịch sử nhỉ? Thế là mình nhớ ngay đến tác phẩm này. Mình định sẽ không đi quá sâu vào chi tiết sự kiện được mô tả trong sách, vì như thế hơi chán. Mình sẽ giới thiệu cho mọi người quyển sách này kèm với bộ phim liên quan để mọi người giải trí dịp cuối tuần. Lời nguyện cầu từ Chernobyl là tác phẩm đã đoạt giải Nobel văn chương năm 2015. Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận định rằng: “Svetlana Alexievich được trao giải vì những trang viết đa dạng về giọng điệu, một biểu tượng mẫu mực về sức chịu đựng và lòng can đảm trong thời đại của chúng ta.” Nội dung chính của tác phẩm liên quan đến sự kiện nổ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ở Pripyat, Ukraina. Đây là thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử về thương vong và cả tiền bạc. Sự kiện này cũng được HBO làm thành phim truyền hình vào năm 2019. Quyển sách bao gồm những bài phỏng vấn, những đoạn hội thoại của tác giả với những nhân vật còn sống sót sau vụ nổ. Chính vì vậy mà mọi thông tin được diễn đạt chân thực nhất có thể. Tất cả những gì chúng ta muốn biết từ sự kiện Chernobyl đều có ở trong sách. Điểm hay ở sách nằm ở việc tác giả đã dành hơn 10 năm, phỏng vấn hơn 500 người, tổng hợp lại để kể cho chúng ra nghe về một thảm họa đã ảnh hưởng rất nhiều đến quê hương của tác giả. Thông qua nội dung của sách, chúng ta biết thêm về những góc khuất mà những bản tin không thể nào có thể truyền tải được, cũng như tâm tư của chính những nạn nhân và gia đình nạn nhân trong thảm hoạ đó. Bộ phim Chernobyl cũng là một tác phẩm rất hay, khi dựng lên được từ đầu đến cuối của thảm hoạ này, bắt nguồn từ nhà máy điện, đến cả sự che giấu của chính quyền Liên bang Xô Viết và cả sự gan dạ, anh dũng của những người lính trong công tác. Rất nhiều cảnh quay đẹp được khắc họa: như cảnh bụi phóng xa bay trong không khí, cảnh người dân vẫn đang sinh hoạt rất bình thường sau khi thảm hoạ diễn ra, cảnh những người lính phải đi dọn dẹp hiện trường trong chính nơi xảy ra vụ nổ, độ phóng xạ cao đến mức con người không thể tồn tại được. Nói ra hết thì nó mất hay, mọi người nên xem phim và đọc sách để có cái nhìn chi tiết hơn về một thảm họa hạt nhân kinh hoàng nhất trong lịch sử. Mỗi lần đến nơi đâu để đo phóng xạ, người ta sẽ dùng thiết bị phát ra tiếng kêu. Mình đã có dịp được cầm trực tiếp cái máy đó trong một buổi học về phóng xạ ở Mỹ. Khi tiếng kêu đó phát ra, tất cả những hình ảnh về Chernobyl mà mình biết lại ùa về. Thế mới hiểu được rằng nỗi ám ảnh phóng xạ đối với người dân sống tại thời điểm đó mới kinh hoàng đến cỡ nào.

Lựa chọn Svetlana Alexievich là tác giả nhận giải Nobel Văn chương năm 2015, Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận định rằng: “Svetlana Alexievich được trao giải vì những trang viết đa dạng về giọng điệu, một biểu tượng mẫu mực về sức chịu đựng và lòng can đảm trong thời đại của chúng ta.” Trong số những tác phẩm đáng giá của bà, có thể nhắc tới Lời nguyện cầu từ Chernobyl như một thí dụ tiêu biểu cho thể loại phi-hư cấu song lại giàu sức lay động không thua kém một sáng tác văn chương có giá trị nào. Tờ Publishers Weekly coi Lời nguyện cầu từ Chernobyl là “cuộc chiếu X-quang tâm hồn Nga”, trong đó, tác giả đã kiên trì và thầm lặng thực hiện những cuộc phỏng vấn với 500 nhân chứng có liên quan tới thảm họa nhân loại tàn khốc này: lính cứu hỏa, đội cứu hộ, chính trị gia, nhà vật lý, nhà tâm lý và những thường dân. Nhìn từ góc độ chính trị, “có lẽ không phải cuộc cải tổ của Gorbachev, Chernobyl mới chính là nguyên nhân thực sự khiến Liên bang Xô viết sụp đổ” (Political Affairs). Nhìn từ lăng kính xã hội, đây là thành quả gom nhặt hơn 10 năm những nỗi đau “tàn khốc và dữ dội” (New York Times Book Review) khiến cả thế giới một lần nữa phải bàng hoàng. Có lẽ Alexievich đã quyết tâm truyền đi Lời nguyện cầu từ Chernobyl không phải ở tư cách một nhà báo hay nhà văn, mà trước hết ở tư cách một người Belarus ghi chép về “sự sống và cái chết của đồng bào mình” (The Nation). Chính vì vậy, không khó hiểu khi bà khơi sâu được “cảm giác lặng đi chẳng nói nên lời, cái ‘khôn tả’, tính anh hùng và niềm đau thương” (The Telegraph).

Tháng 4 có ngày sách Việt Nam, ngày sách và bản quyền thế giới. Và sau này người ta sẽ nhắc tới ngày Nhà thờ Đức Bà ở Paris bị cháy. Tháng 4 sẽ còn một ngày mà sau này người ta sẽ còn nhắc mãi về thảm hoạ nổ nhà máy điện hạt nhân ở Chernobyl. Lời nguyện cầu từ Chernobyl là tác phẩm phi hư cấu, đó là lời kể của những nhân chứng sống, là góc nhìn chân thực của người trong cuộc, giúp bạn đọc có cái nhìn chân thực nhất về thảm hoạ Nếu ai đã biết tới tác phẩm Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ chắc sẽ không xa lạ với Svetlana Alexievich. Lời nguyện cầu từ Chernobyl là tác phẩm phi hư cấu của bà. Vốn là nhà văn và cũng là nhà báo nên tác phẩm Lời nguyện cầu từ Chernobyl như một thiên phóng sự, cái nhìn, quan điểm, tâm sự của các nhân chứng sống về thảm hoạ nổ nhà máy điện hạt nhân ở Chernobyl. Tác phẩm như là nén hương, lời tưởng niệm của tác giả dành cho những nạn nhân của thảm hoạ đó. Ngày 26/4/1986 đi vào lịch sử, là nỗi ám ảnh lớn nhất của nhân loại khi nhà máy điện hạt nhân ở Chernobyl bị nổ đã xoá sổ 485 ngôi làng và khu dân cư của Belarus. Trong đó 70 ngôi làng bị chôn lấp dưới lòng đất vĩnh viễn. Một phần tư dân số Belarus đã thiệt mạng trong chiến tranh; giờ đây một phần năm dân số nước này sống trên những vùng đất nhiễm phóng xạ. Con số này là 2,1 triệu người, trong đó có 700.000 trẻ em. Trong những nguyên nhân gây ra sự giảm dân số ở Belarus, nhiễm phóng xạ là nguyên nhân hàng đầu. Ở vùng Gomel và Mogilev, nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của thảm hoạ Chernobyl, tỉ lệ người chết cao hơn tỉ lệ sinh tới 20%. Và còn nhiều những di chứng do phóng xạ gây ra. Những số liệu về thiệt hại của thảm hoạ Chernobyl bạn có thể tra google nhưng có những thứ lịch sử không nói tới mà đọc những lời của các nhân chứng sống bạn mới hiểu rõ về những suy nghĩ, cái nhìn của họ về thảm hoạ. Hiểu được những mất mát mà họ đã phải trải qua. Lịch sử sẽ không nói rằng họ không hề biết gì về phóng xạ lúc thảm hoạ xảy ra. Sự thờ ơ, thiếu quan tâm của chính phủ, thiếu sự lắng nghe, thiếu hành động một cách đúng đắn của chính phủ đối với nạn nhân của vụ nổ. Những thương binh trở về từ cuộc chiến được vinh danh trong ngày chiến thắng 9/5 vì họ hy sinh cho mục đích cao cả thế còn những người là nạn nhân của vụ nổ ở nhà máy điện hạt nhân ở Chernobyl thì sao? Hậu quả của vụ nổ không hề thua kém bất cứ cuộc chiến tranh nào. Họ cũng đã mất mát và hy sinh quá nhiều. Người chết, người bị nhiễm độc phóng xạ mà bị ung thư, không thể sinh con, mất đi khả năng làm mẹ, mất đi khả năng làm cha. Họ không dám sinh con vì sợ con sinh ra không lành lặn do cha mẹ bị nhiễm phóng xạ. Họ luôn phải đối mặt với cái chết, đối mặt với nỗi lo sợ hàng ngày. Cuộc sống của họ hoàn toàn đảo lộn sau khi vụ nổ xảy ra. Con cái, gia đình họ cũng bị nhiễm xạ, bị bệnh tật đeo bán. Họ bị cô lập, xa lánh như một thứ dịch bệnh nguy hiểm, họ hoàn toàn cô độc. Họ không được giải thích gì về vụ nổ hay phóng xạ. Người ta chỉ nói di dân, đưa họ ra khỏi mảnh đất của họ, nói họ không được ăn thứ này, uống thứ kia. Trên các tờ báo hay phương tiện thông tin đại chúng chính phủ tuyên truyền là mọi việc vẫn ổn, lửa đã được dập tắt. Họ cô đơn, cô độc trong cuộc chiến. Họ không hề có đồ bảo hộ, không được tuyên truyền, hướng dẫn cách phòng tránh nhiễm xạ hay khử nhiễm xạ trong cơ thể, không được chăm sóc ý tế. Bởi sự thật về vụ nổ là bí mật, họ được yêu cầu phải giữ bí mật để tránh gây hoang mang cho cộng đồng. Không có ý đồ động trạm tới chính trị, chỉ là những câu chuyện do nhân chứng kể lại. Alexievich đã đi khắp Chernobyl, phỏng vấn mọi người: những công nhân làm việc ở nhà máy điện, các nhà khoa học, các quan chức của đảng cũ, các bác sĩ, những người lính, các phi công lái trực thăng, thợ mỏ, những người tị nạn, những người dân tái định cư. Tất cả họ có những số phận khác, nghề nghiệp khác, tính khí khác nhưng Chernobyl là nội dung chính trong thế giới của họ. Họ là những con người bình thường trả lời những câu hỏi quan trọng nhất. Thảm hoạ xảy ra, cách xử lý, cách họ đối phó có thể sai, có thể đúng. Dưới góc nhìn của người trong cuộc mỗi người mỗi ý kiến, mỗi thái độ mà chính người của đảng dưới góc nhìn về chiến lược chính trị cũng nói rằng: “tôi là sản phẩm của cái thời tôi sống. Tôi không phải là một tội đồ.” Chernobyl – nơi khu vực cách ly, nó là một thế giới tách biệt, một thế giới nằm trong phần còn lại của thế giới – nó mạnh hơn bất cứ điều gì mà văn học có thể nói. Một thảm hoạ không thua gì nạn diệt chủng tàn sát người Do Thái hay những người thiệt mạng trong thế chiến 2 và nó sẽ mãi là nỗi ám ảnh mà người ta sẽ còn nhắc tới. Hơn bất cứ áng văn nào. Lời nguyện cầu từ Chernobyl là nén hương, là bài ca tưởng niệm cho thảm hoạ nổ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl với góc nhìn chân thật, toàn diện, giúp người đọc hiểu hơn về thảm họa ám ảnh nhất trong lịch sử này.

Tại buổi ra mắt “Lời nguyện cầu từ Chernobyl”, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đánh giá, tác phẩm qua phần dịch của Nguyễn Bích Lan đã góp phần đưa đến cho bạn đọc một tác phẩm nổi tiếng, giàu giá trị nhân văn của Svetlana Alexievich. Với sự nỗ lực và nhiệt huyết, hăng say, cẩn trọng trong từng câu chữ, Nguyễn Bích Lan một lần nữa cho thấy chị là “người nông dân chăm chỉ” trên cánh đồng chữ, vượt qua khó khăn bệnh tật để đem đến cho bạn đọc nước ta những ấn phẩm giá trị. Theo đó, ngày 26/4/1986 với việc xảy ra vụ nổ lò phản ứng số 4 của Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, đã trở thành nỗi ám ảnh lớn của nhân loại. Mười năm sau thảm họa ấy, khi mà khả năng nhiễm xạ vẫn còn đe dọa bất cứ ai đặt chân đến vùng Chernobyl, nữ nhà báo, nhà văn Svetlana Alexievich đã có mặt ở đó, thu thập dữ liệu, gặp gỡ và phỏng vấn khoảng 500 người đã từng chứng kiến hoặc trực tiếp tham gia công việc khắc phục hậu quả sau sự cố. Họ là những người lính cứu hỏa làm nhiệm vụ dập lửa tại lò phản ứng trong đêm xảy ra vụ nổ, các phi công lái máy bay thả cát xuống lò phản ứng từ trên cao để hạn chế sự phát tán của chất phóng xạ, những người lính được giao sơ tán dân và chôn lấp những ngôi làng nhiễm xạ, các nạn nhân trực tiếp và gián tiếp thuộc đủ các lứa tuổi ở Belarus. Như một tế bào trong một cơ thể bị tổn thương, Svetlana Alexievich đã cảm nhận sâu sắc sự thay đổi vĩnh viễn cũng như những mất mát không thể bù đắp nổi trên quê hương của bà kể từ khi xảy ra thảm họa nói trên. Trong khi đi sâu khám phá những dữ liệu cũg như các cung bậc cảm xúc của con người xung quanh thảm họa Chernobyl, bạn đọc đồng thời được trải nghiệm sự độc đáo của Svetlana Alexievich qua cách xây dựng tác phẩm thuộc thể loại văn chương phi hư cấu. Thực chất, cốt lõi của “Lời nguyện cầu từ Chernobyl” là các cuộc phỏng vấn được thực hiện với các nhân chứng mà trong đó tính khách quan và độ trung thực được đặt ở vị trí cao nhất Chia sẻ tại buổi ra mắt sách, dịch giả Nguyễn Bích Lan cho biết “Đây là tác phẩm dịch tôi tâm đắc nhất từ trước đến nay vì nó mang nhiều ý nghĩa, và cũng sát với thực tế đang diễn ra ở Việt Nam. “Lời nguyện cầu từ Chernobyl” đậm tính nhân văn, trong đó muốn truyền tải thông điệp sâu xa là mong đời sống hiện tại không còn những thảm họa hạt nhân, hướng tới một thế giới tươi đẹp”.