Bullshit Jobs - công việc vô nghĩa, một hiện tượng xã hội đã tồn tại, ăn sâu vào trong nhận thức, đạo đức con người. Khi phần lớn mọi người thấy công việc của mình đang làm là vô bổ, nhưng lại tin rằng tình trạng này là bình thường, là không thể  tránh khỏi, thậm chí là đáng ao ước. Vậy điều gì khiến mọi người hiện nay, không nhìn nhận một cách nghiêm túc về vấn đề này? Dưới góc nhìn của một giáo sư ngành nhân chủng học, một nhà hoạt động chính trị và một nhà báo, David Graeber đem đến cho người đọc một cách nhìn trực diện để nhận thức rõ sự hiện diện và tác hại của nó đối với xã hội trên mọi khía cạnh. Có thể nói, khi viết cuốn sách này, tác giả đã cho độc giả có dịp được nói, được nghe về hiện tượng này một cách hoàn chỉnh, để rồi cảm thấy nhẹ nhõm trong tâm hồn của chính mình. 


Tổng quan cuốn sách 


Cuốn sách này là kết quả của cuộc nghiên cứu có hệ thống, với sự kế thừa, phát triển, đi sâu phân tích từ bài tiểu luận mà Graeber viết cho tạp chí Strike vào năm 2013: “Về hiện tượng các công việc vô nghĩa”. Bài viết đã trở thành một hiện tượng được lan truyền rộng rãi ngay lập tức. Với 12 ngôn ngữ được dịch ra trên toàn thế giới, trang web của Strike, nơi đăng tải bài viết gốc luôn trong tình trạng nghẽn vì truy cập quá lớn. Các trang blog mọc nên như nấm, bình luận sôi nổi về vấn đề này, những lời thú nhận từ những người đang trải qua, hay những lời chia sẻ, xin ý kiến… Tất cả, giống như một ngọn đuốc bùng cháy khi gặp mồi lửa. Bài viết thực sự là một chất xúc tác hiệu quả, để mọi lực lượng lao động nhìn nhận nghiêm túc, và tìm ra hướng đi cho bản thân: từ bỏ công việc vô nghĩa hiện tại, đi tìm điều gì đó có ý nghĩa hơn. Bullshit Jobs chỉ ra sự tồn tại và hệ quả tiêu cực cho xã hội của những công việc vô nghĩa, những “nghề thừa” quanh chúng ta. 


Nhìn vào cấu trúc nội dung của sách, tác giả đi từ những bước đầu tiên khi tiếp cận một vấn đề. Khái niệm thế nào là công việc vô nghĩa. Nhưng không dừng lại ở cách hiểu “nôm na” hay “đại khái” mà định nghĩa được đúc kết từ quá trình phân tích các mặt của hiện tượng này trong xã hội để chỉnh sửa cho ra một định nghĩa đúng nhất. Tiếp đó, tác giả cho thấy những nỗ lực thú vị của mình khi phân loại các công việc vô nghĩa. Và để tránh gây ra sự “ùn tắc” trong việc tiếp cận các khái niệm, một ví dụ hiệu quả đưa ra để tháo gỡ những bối rối của người đọc. Sau khi đã có những định hình nhất định về công việc vô nghĩa, tác giả bắt đầu khám phá một số ảnh hưởng về mặt đạo đức và tâm lý khi người ta bị mắc kẹt trong một công việc vô nghĩa. Những tác động của nó đối với cuộc sống, cảm xúc, động lực làm việc của con người là như thế nào. Hay nó tạo ra hệ quả gì khi mỗi người chấp nhận sống chung với nó dù biết đó là “cội nguồn của bất hạnh”. Với kết luận ban đầu mà tác giả đưa ra “rằng chúng gây ra những thiệt hại đáng kể về mặt đạo đức và tinh thần, tạo nên vết sẹo trong tâm hồn con người”, vì thế ở Chương 4, những nghiên cứu đi sâu vào cảm xúc của con người khi bị buộc phải giả vờ làm việc. Không chỉ dừng lại ở việc mô tả các hình thức công việc vô nghĩa đang tồn tại, David  Graeber còn đi sâu phân tích tốc độ tăng trưởng của loại công việc này và phải dùng đến từ “sự bùng phát” để nói lên mức độ của chúng trong tình hình thực tế hiện nay (Chương 5). Chương 6, nhắc đến những khía cạnh liên quan đến giá trị xã hội mà công việc này ảnh hưởng. Từ việc tạo ra một thang đo giá trị để thấy mức độ vô nghĩa trong xã hội, đến giá trị kinh tế và giá trị xã hội khác biệt như thế nào... Để thấy sức ảnh hưởng của loại công việc này đối với toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, tác giả kết thúc cuốn sách với một vài suy nghĩ về ý nghĩa chính trị của tình hình việc làm hiện nay và hướng đi khả thi cho người đọc (Chương 7). 


Bullshit Jobs - Công việc vô nghĩa là gì?


Bình thường khi nhắc đến bullshit, chúng ta thường nghĩ đến những trò nhảm nhí, lố bịch, vô tác dụng, không có ý nghĩa gì trong cuộc sống. Nên khi nghe đến Bullshit Jobs, tôi đã nghĩ rằng, những người làm những công việc này thì được lợi ích gì chứ. Chẳng có ai lại đi trả lương cho những người làm công việc này cả. Nhưng những gì trong cuốn sách của Graeber cho thấy một hiện tượng hoàn toàn trái ngược. Những người làm các công việc này được thuê tuyển và trả lương đầy đủ, thậm chí còn hậu hĩnh là đằng khác. 


Hơn nữa, người làm những công việc này lại hoàn toàn nhận thức được cái vô nghĩa theo đúng nghĩa đen của nó và họ không thể tự thuyết phục bản thân rằng có một lý do chính đáng nào đó để làm công việc như vậy. Và nếu vào một ngày đẹp trời nào đó, những người làm công việc này, đột nhiên biến mất thì cũng chẳng gây ra sự khác biệt nào cho thế giới hoặc thậm chí người ta còn không để ý rằng người đó biến mất. Ví dụ của Công chức Tây Ban Nha bỏ việc trong sáu năm để nghiên cứu lý thuyết Spinoza mà tác giả đã chỉ dẫn. Ông ta nhận lương đầy đủ suốt 6 năm không đến văn phòng làm việc mà tập trung nghiên cứu các tác phẩm của Spinoza. 

Công việc vô nghĩa là một hình thức của việc làm có trả lương, và nó hoàn toàn vô nghĩa, không cần thiết hoặc có tính độc hại mà đến cả người làm công việc đó cũng không thể biện minh cho sự tồn tại của nó, mặc dù học cảm thấy buộc phải giả vờ rằng nó không phải việc vô nghĩa, như một phần của điều kiện làm việc. 


Những thắc mắc, nhầm lẫn về công việc vô nghĩa với công việc tồi tệ được giải thích chi tiết và rõ ràng. Đây hoàn toàn là hai công việc khác nhau, chúng thật ra còn đối nghịch nhau nữa. Công việc vô nghĩa thì thật trái khoáy là được trả lương khá hậu hĩ và có điều kiện làm việc rất tốt, chỉ là chúng vô nghĩa. Công việc tồi tệ thì thường là những việc cần phải làm để phục vụ lợi ích xã hội, chỉ có điều những người làm công việc này bị đối xử và trả công rất kém. 


Nhìn vào công việc dọn dẹp thông thường, cho dù không có cảm giác làm người ta mất phẩm giá, và ngày nay có thể gần như chắc chắn rằng họ được tôn trọng, nhưng chúng vẫn có thể dễ dàng trở nên như vậy. Dù vậy thì ít nhất, những người làm công việc này cảm thấy tự hào, bởi rằng những tòa nhà, con phố cần được dọn dẹp và nếu như không có họ thì thành phố sẽ ngập trong rác. 


Công việc tồi tệ thường thuộc về giới cổ cồn xanh và trả công theo giờ, còn công việc vô nghĩa thường là giới cổ cồn trắng và trả lương theo tháng. Những người làm công việc vô nghĩa thường được vây quanh bởi hào quang, được tôn trọng, được trả lương cao và đối xử như người thành đạt, chỉ là họ vẫn tự hiểu được rằng mình chẳng làm gì, chẳng có ích gì mà thôi. 


Mặt khác, công việc vô nghĩa luôn cho ta một mường tượng liên quan đến khu vực công. Nơi thường được cho là bộ máy hành chính cồng kềnh, bành trướng với các chức danh không cần thiết. Ký ức ở các quốc gia như Liên Xô cũ cũng sẽ cho ta hiểu về vấn đề này. Khi mà chính sách ai cũng có việc làm và do đó người ta đã đặt ra đủ thứ việc trên đời để phân bổ việc làm, bất kể có cần thiết hay không. Một điều lưu ý thêm, thứ gọi là bullshit Jobs không chỉ tồn tại trong giới chức công quyền, mà các nước theo chủ nghĩa tư bản, nơi đề cao tính hiệu quả nhất, thì ngày này cũng không kém gì khu vực công trong việc làm vô dụng. Với đủ mọi chức danh quản lý, hành chính ra đời theo cấp số nhân, đối nghịch với sự sụt giảm người lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm, sửa chữa, duy trì mọi thứ. 


Công việc vô nghĩa có những loại nào?


Với nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa ra năm loại công việc vô nghĩa cơ bản và mô tả các đặc điểm cơ bản của từng loại. 


Nhóm làm nền là những công việc chủ yếu để làm cho người khác cảm thấy rằng họ quan trọng. Nghĩ đến các quan lại giàu có và quyền lực thời xưa thì sẽ thấy, vây quanh bởi hành tá người hầu, khách trú, xu nịnh, thuộc hạ. Họ cứ loanh quanh bên cạnh người giàu sao cho thật ấn tượng. Vậy thì điều tương tự trong thế giới hiện tại là gì? Những nhân viên gác thang máy mặc đồng phục và chỉ làm một việc là nhấn nút chọn tầng cho bạn như ở Brazil là một ví dụ. Cấp tiến hơn nhưng vẫn mang tính chất của loại công việc này là nhân viên tiếp tân và tiền sảnh. 

“Vị trí của tôi tại công ty này là hoàn toàn không cần thiết và không phục vụ mục đích nào khác ngoài việc làm cho sếp tôi có vẻ ngoài hào nhoáng hơn và cảm thấy như là một người thành đạt.”  Jack nói. 


Nhóm tay sai là những người làm công việc có tính lôi kéo, nhưng chủ yếu là để nói đến những người tồn tại chỉ vì người khác sử dụng họ. Tác giả lấy ví dụ từ lực lượng quân đội, chiến lược gia truyền thông PR, luật sư doanh nghiệp, nhân viên tiếp thị… hẳn sẽ làm nhiều người thắc mắc những công việc này có thật sự nhảm nhí hay không. Lý do tác giả đưa ra là bởi chính họ đã thổ lộ rằng họ không có giá trị cho xã hội và cảm thấy khốn khổ. Họ làm việc với tính lôi kéo và sự lừa dối người khác để làm những việc bất chấp lẽ thường


Nhóm vá víu là những người làm việc để giải quyết một vấn đề mà đáng lý ra nó không nên tồn tại. Họ dành toàn thời gian để làm tương thích cho những điều không phù hợp. Dọn dẹp chẳng hạn, sẽ không có vấn đề gì nếu là dọn dẹp thông thường. Nhưng dọn dẹp sau khi một người vô cớ gây ra hỗn độn hoàn toàn không cần thiết thì thật sự gây khó chịu. Vậy mà tạo ra công việc và thuê một người chỉ làm việc này thì chỉ có gây oán hận mà thôi. 


Nhóm làm màu là nói về các lao động chỉ tồn tại để tổ chức có thể tuyên bố rằng họ đang làm một việc gì đó, mà trên thực tế thì không làm gì cả. Điều khốn khổ nhất đối với kiểu công việc này là nhân viên thường nhận thức rõ công việc của họ không chỉ hướng đến mục đích bề ngoài mà còn phá hoại cái mục đích đó nữa. Thử tưởng tượng khi xảy ra việc trộm cắp, việc đầu tiên họ làm là lập ra “Ủy ban tìm kiếm sự thật” để điều tra tận cùng. “Ủy ban tìm kiếm sự thật” chính là thứ để làm màu cho mọi người rằng tổ chức đó đang thực sự quan tâm giải quyết vấn đề này. Mặc dù thực tế không biết họ có làm việc hay không. 


Cuối cùng là nhóm vẽ chuyện. Nhóm này thường nghĩ tới công việc ở mức giao việc, và tất cả mọi việc họ làm là tạo ra những việc không cần thiết, vô nghĩa cho cấp dưới. Để tìm ra những lời thú nhận từ những người này thường khó, ít người chịu thừa nhận vấn đề này. Và chỉ có thể mong chờ từ những người muốn được thanh thản lương tâm nói ra mà thôi. 


Năm loại kể trên đây chắc chắn chưa đầy đủ so với sự “đông đảo” của chúng trong xã hội ngày nay. Người tạo phong trào, người tiếp dân cũng là những người có vai trò làm các công việc vô nghĩa. Tác giả cũng giải thích thêm về liệu có tồn tại trên thế giới một công việc vô nghĩa mà ta không biết. Điều này được đánh giá về mức độ chủ quan cá nhân và thực tế khách quan. Chắc chắn, với một công việc mà 30 người thực hiện y như nhau, thì sẽ có ít nhất một người cho rằng công việc của họ không vô nghĩa. Và nhìn ở mức rộng hơn, thì sẽ có một nhóm người không chỉ phủ nhận công việc của họ là nhảm nhí mà còn thể hiện thái độ thù địch với ý tưởng trên. Bạn có bao giờ thấy các chủ doanh nghiệp nói là mình thuê một nhân viên về mà không không làm gì không?( điều này dễ đoán mà)


Công việc vô nghĩa là cội nguồn của bất hạnh


Bắt đầu khám phá những ảnh hưởng của loại công việc này về đạo đức và tâm lý của người bị mắc kẹt trong đó. Thực sự là một vấn đề cần phải được giải đáp. Khi tác giả đưa ra thực trạng công việc mà được trả lương một cách đầy đủ để không làm gì cả, tưởng chừng nghe rất vô lý. Và dù điều này có thật, thì tại sao có một công việc vô nghĩa lại khiến cho chúng ta khổ sở?

Người ta có thể hình dung rằng những người được trả tiền để không làm gì là may mắn. (Thỉnh thoảng vẫn có người nói rằng họ không thể tin vào vận may của mình khi nhận được công việc như vậy. Nhưng cực kì ít). Nhiều người còn bối rối trước phản ứng của chính họ vì không hiểu tại sao việc “được trả lương để không làm gì” lại khiến mình thấy vô giá trị và chán nản. Và vì không có được lời giải thích rõ ràng cho cảm xúc của mình nên họ lại càng khổ sở.


Theo tác giả, một hiện tượng gọi là “bối rối về đạo đức” đưa ra vấn đề rằng một mặt, mọi người được khuyến khích để giả định con người luôn có xu hướng tìm cho mình một tình huống mà họ có thể nhận được lợi ích cao nhất mà ít tốn thời gian và công sức. Mặt khác, chúng ta lại có xu hướng mâu thuẫn với các giả định này. Cách mọi người hành động và phản ứng trước các tình huống thường không đúng với xác dự báo dựa trên lý thuyết về bản chất con người. Kết luận hợp lý duy nhất là lý thuyết này đã sai đối với một số bản chất quan trọng của con người. 


Vậy khi những người trẻ mới ra trường, họ bắt đầu trên con đường tìm kiếm việc làm thì liệu sau khi đã trải qua những công việc nhảm nhí này, họ sẽ học được những điều gì?


1.Cách làm việc dưới sự giám sát trực tiếp của người khác;

2.Cách giả vờ làm việc ngày cả khi không có gì để làm;

3. Người ta không được trả tiền để làm những việc họ thực sự thích, dù việc đó hữu ích hoặc quan trọng đi chăng nữa;

4.Người ta được trả tiền để làm những việc vô ích và không quan trọng, mà họ cũng chẳng thích;

5. Ít nhất là đối với các công việc cần tiếp xúc với công chúng, ngay cả khi người ta được trả tiền để làm các nhiệm vụ mà họ không thích thì học cũng phải giả vờ là thích. 


Động lực làm việc của con người để duy trì những công việc nhảm nhí này được xem xét đánh giá dựa trên bản chất của con người. Con người chắc chắn có xu hướng bị giày vò và cảm thấy căm ghét những công việc mà họ cho là mất phẩm giá. Cảm giác sống không có mục đích khiến cho bản thân họ không tìm ta được động lực để theo đuổi hay duy trì một điều gì. Chính vì thế, có lẽ vấn đề một người bị kẹt trong tình huống họ nghĩ mình được tuyển vào để làm một công việc có ích, nhưng sau đó nhận ra công việc của mình rõ ràng là vô nghĩa và phải giả vờ là mình đang làm việc hữu ích, thì rốt cuộc họ sẽ bị những tổn thương tâm lý nghiêm trọng sẽ hiểu được tại sao. Nó không chỉ là một cú đánh vào sự cảm nhận về tầm quan trọng của bản thân, mà còn là sự tấn công trực tiếp vào chính nền tảng của sự cảm nhận về cái tôi. Một con người không thể tạo ra một tác động có ý nghĩa đối với thế giới sẽ không thể tồn tại. 


Cảm giác khi làm công việc vô nghĩa 


Chương này, tác giả tập trung đi sâu vào khía cạnh cảm xúc của những người phải làm một công việc vô nghĩa. Bị buộc phải giả vờ làm việc là điều khiến mọi người vô cùng bức xúc vì nó cho thấy bạn hoàn toàn phụ thuộc vào quyền lực của một người khác. Làm việc hoặc giả vờ làm việc không phải vì bất kỳ lý do chính đáng nào, mà chỉ vì làm cho có làm việc, nên không có gì ngạc nhiên khi nó khiến người lao động bị tổn thương. 


Một điều nữa, sự mơ hồ trong việc xác định nguyên nhân ép chúng ta giả vờ làm việc, khiến cho chúng ta bực tức, phẫn nộ cũng chỉ đang làm thêm khổ sở, mà không biết do đâu. Có một cái gì đó khủng khiếp, lố bịch, kỳ quặc đang diễn ra, nhưng thậm chí còn không hiểu rõ mình có được phép thừa nhận chuyện đó hay không, và thường thì chúng ta càng không rõ ai hay cái gì phải nhận trách nhiệm. 


Cảm giác thất vọng kinh khủng của những nhân viên khi việc học hành, rèn luyện hay nỗ lực để được làm việc thì lại không phải làm gì khi vào môi trường thực. Đối với một số người, sự vô nghĩa của công việc còn làm tăng thêm nỗi chán nản, và đối với người khác thì làm trầm trọng thêm nỗi lo lắng. Sự lặp đi lặp lại vô nghĩa trong công việc, cộng thêm quá trình kéo dài, dần hình thành các triệu chứng lo âu căng thẳng. Những câu hỏi như mình đang làm công việc này vì điều gì? Nó đem lại lợi ích gì cho bản thân hay cho cộng đồng?...


Căng thẳng thần kinh là một chủ đề nữa cần nhắc tới là hậu quả của Bullshit Jobs. Những hành vi bạo hành tinh thần kiểu như này dần quá quen thuộc với những người từng làm việc trong môi trường văn phòng. Như vị sếp luôn nhắc mãi về một lỗi mà ai cũng biết là nó đã được khắc phục hoàn toàn từ lâu rồi ấy thì điều thực sự mà ông sếp muốn nói là gì? Sự vô nghĩa trong việc này chỉ đơn thuần là nâng cao quyền lực của vị sếp và sức ép tinh thần cho nhân viên mà thôi. 


Những căn bệnh liên quan đến căng thẳng thần kinh dường như là hậu quả do người lao động phải làm việc những công việc vô nghĩa. Họ bị trầm cảm, lo âu, kết hợp với đủ loại triệu chứng khác về thể chất. 


Sự bùng phát của công việc vô nghĩa


Tác giả đưa ra những lý do đủ sức thuyết phục để người đọc tin rằng, những năm gần đây và càng về sau, tổng số công việc vô nghĩa, tỷ lệ các công việc được chính những người làm nó coi là nhảm nhí đã và sẽ tăng lên nhanh chóng, mức độ nhảm nhí cũng gia tăng đáng kể. 


Những số liệu gia tăng, và mức độ hình thành các việc làm trong các ngành từ nông nghiệp sản xuất, dịch vụ với đủ các chức danh khác nhau, đôi lúc sẽ khiến chúng ta tự hỏi, những chức danh được ra đời nhằm mục đích gì. Cơ cấu việc làm ở những quốc gia sản xuất và được chọn là công xưởng sản xuất cho thế giới, nơi mà chúng ta nghĩ sẽ tập trung nhiều việc làm nhất thì các biểu đồ thống kế sẽ cho thấy điều ngược lại. Vậy thì không biết, số lượng công việc gia tăng đáng kể hiện nay là ở đâu?

Lĩnh vực quản lý hành chính với số lượng nhân viên hành chính tăng vọt tại Hoa Kỳ, giai đoạn 2005, sẽ thấy con số tuyển sinh việc làm tăng vọt. Các ngành bảo hiểm, tài chính, bất động sản, những ngành nghề mà bình thường sẽ nghĩ đến họ thực sự phải làm việc thì mới đem lại những giá trị cho nền kinh tế, hay dự đoán tình hình tài chính trên nền vĩ mô của quốc gia. 


Chắc chắn các kiểu công việc vô nghĩa đã tồn tại từ lâu, nhưng những năm gần đây, chúng đã tăng lên mạnh mẽ đi kèm với mức độ nhảm nhí hóa các “việc làm thực thụ”, trong xã hội chủ nghĩa tư bản ngày càng rõ nét, thì việc hình thành và ngày càng lớn mạnh của loại công việc này thật sự phá vỡ sự logic của chủ nghĩa tư bản, hoặc có thể thế giới chưa đạt đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản như của Các Mác đã nói. Ngành tài chính và dịch vụ cũng là những lĩnh vực cho thấy sự tác động của chúng đối với tình hình việc làm hiện nay. 


Càng về cuối sách, David Graeber sẽ giải thích những tác động về mặt văn hóa và chính trị của ngành nghề này. Một cái nhìn có hệ thống về giá trị xã hội và tiền lương, cũng như mối quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản và sự hình thành quan hệ lao động. Để thấy, được rốt cuộc việc làm được tác động bởi những yếu tố nào, và thực sự xã hội hiện nay đang tạo ra môi trường như thế nào để tạo điều kiện cho công việc nhảm nhí sinh sôi và phát triển. 


Giải pháp cho hiện tượng 


Tác giả đề cập đến mô hình Thu nhập Cơ bản đang được đánh giá sẽ làm thay đổi tình hình việc làm hiện nay. Phong trào này kêu gọi thay thế tất cả các phúc lợi xác hội bằng mỏ khoản phí cố định, bằng nhau, được trả cho tất cả mọi công dân trong nước. Việc áp dụng Thu nhập cơ bản chung nhằm cân bằng tiền lương giữa nam và nữ, giữa người già, người trẻ, đẳng cấp cao, thấp… thì những khác biệt giữa các công việc và con người dần tan biến. 

Khoản tiền này không yêu cầu tất cả người nhận phải đạt được một tiêu chuẩn gì, ai cũng sẽ được nhận, ai cũng xứng đáng được nhận như nhau thì nó sẽ giống như là quyền của con người mà không phải từ thiện. 


Những gì mà Thu nhập Cơ bản đề xuất là tác sinh kế khỏi công việc. Hiệu quả ngay lập tức của nó sẽ là làm giảm mạnh số lượng công việc quan liêu ở bất kỳ quốc gia nào thực hiện nó. Một bộ máy hành chính khổng lồ, cái bóng của các tổ chức phi chính phủ bao quanh nó, chỉ để làm người nghèo cảm thấy thêm tồi tệ về bản thân họ, khi họ phải nhận sự quan tâm, giúp đỡ từ Chính phủ, và như một sự tương hỗ, bộ máy Chính phủ ngày càng bành trướng với mọi chức vụ để “phục vụ” người dân. 


Nếu như Thu nhập Cơ bản chung theo đánh giá của Graeber và những nhân vật “người thật việc thật” trong cuốn sách thật sự được áp dụng, thì những bộ phận mà có thể nói là đáng ghét, và thừa thãi nhất của cấp hành chính sẽ ngay lập tức bị loại bỏ. Nó sẽ giúp mọi người sẽ có đánh giá, quyết định về công việc họ muốn làm là theo đuổi ý nghĩa, đam mê của mình, hay sự giàu có,... mà không phải suy nghĩ đến sinh kế. 


Và cuối cùng, điều tác giả đưa ra của cuốn sách này, không phải một vấn đề xã hội, những tác hại của nó và giải pháp cụ thể cho nó mà điểm chính là để mọi người bắt đầu suy nghĩ và tranh luận về một xã hội tự do chân chính thực sự có thể như thế nào, chứ không phải những sự tự do trừu tượng, điều quan trọng nhất của chúng ta. 


Lời kết


Cuốn sách của Graeber đã nói lên cảm nhận của người đọc hay của đa số mọi người trên thế giới này. Tác giả đã công khai một vấn đề mà chính những người đang mắc kẹt trong công việc nhảm nhí này và đang khổ sở vì chúng không dám lên tiếng. Những nỗ lực nghiên cứu của ông không chỉ tạo ra sự vui vẻ cho người đọc khi được thấu hiểu, mà còn cho thấy sự nực cười về một hiện tượng đang vận hành trong xã hội hiện nay. Và ẩn sau là sự đau đớn bởi chúng ta đã sai lầm rất nhiều và cũng mất vô khối thời gian dành cho nó. 


Review bởi: Hoàng Thủy

-----

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy

Bạn đam mê viết lách, yêu thích đọc sách và muốn lan toả văn hoá đọc tới cộng đồng của YBOX.VN? Đăng ký để trở thành CTV Bookademy tại link:

(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ “Tên tác giả - Bookademy”. Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.

Xem thêm

Graeber là một nhà văn rất cuốn hút, mặc dù tôi cảm thấy rằng lý thuyết của ông về những công việc vô nghĩa lại quá dài dòng so với sở thích của tôi. (Tôi cũng khá chắc chắn rằng ông ấy sẽ coi hầu hết công việc của tôi là vô nghĩa, và niềm tin ngược lại của tôi ít nhất một phần là do tôi đứng cao trong hệ thống cấp bậc đến nỗi mọi người tâng bốc công việc của tôi không phải là vô nghĩa.) Luận điểm cơ bản của ông: nhiều công việc hiện đại là vô nghĩa, trong nghĩa rằng chúng có thể biến mất hoàn toàn và thế giới sẽ không bị tổn thương hoặc thậm chí tốt hơn, và cũng trong nghĩa rằng hầu hết mọi người làm chúng ở một mức độ nào đó hiểu điều này, điều này gây ra tổn thương tâm lý sâu sắc cho họ do nhu cầu về hiệu quả của con người. Một kết quả là sự gia tăng sự oán giận của những người có công việc không vô nghĩa—giáo viên, lính cứu hỏa, y tá—được nuôi dưỡng một cách cố ý bởi các lực lượng chính trị có lợi từ việc chia rẽ và áp bức người lao động. Đối với những tầng lớp quyền lực, “một dân số hạnh phúc và sản xuất với thời gian rảnh rỗi trong tay là một mối nguy hiểm chết người. ... Và, mặt khác, cảm giác rằng công việc là một giá trị đạo đức trong chính nó, và bất kỳ ai không sẵn lòng phục tùng mình cho một loại kỷ luật lao động gắt gao trong hầu hết thời gian tỉnh táo của họ không xứng đáng nhận được gì, là vô cùng thuận tiện cho họ.”

Giáo sư Graeber kết thúc công trình của mình bằng một cuộc thảo luận về thu nhập cơ bản toàn cầu. Tôi phải cảnh báo mọi người, từ kinh nghiệm cá nhân. Với thu nhập cơ bản toàn cầu, chúng ta sẽ dành thời gian như thế nào? Có ngủ, ăn (điều mà bây giờ chúng ta dường như làm rất tốt), và giải trí điện tử. Và còn gì nữa? Chẳng phải chúng ta cần một lý do để rời khỏi giường sao? Không, thu nhập cơ bản toàn cầu dường như là một ý tưởng rất, rất tồi. Nó có thể có vai trò như một phụ cấp cho thu nhập, tuy nhiên, tôi phải phản đối suy nghĩ rằng thu nhập cơ bản toàn diện là chính sách công cộng tốt.

Mặc dù tôi không chắc chắn về phân loại của ông, tôi cảm thấy Giáo sư Graeber đang tiếp cận một điều gì đó quan trọng với công trình này. Nó có vẻ hơi ngây thơ học thuật, hơi xa rời thế giới kinh doanh thực sự. Ví dụ, có rất nhiều chuyện bậy bạ xảy ra ở cấp độ hội đồng quản trị trong các tập đoàn lớn nhất thế giới; các giám đốc không biết gì cả, nhưng vẫn được trả công hậu hĩnh như nhau. Tôi muốn thấy thêm bình luận về hiện tượng đó, đặc biệt là.

Về lý do của tất cả những điều này, tôi đã viết trước đây:

Vâng, kể từ khi bước vào Kỷ Holocene, loài chúng ta đã chệch hướng từ trật tự được thiết lập qua hàng triệu năm của quá trình chọn lọc tự nhiên, và điều này diễn ra với tốc độ đáng sợ, giống như một con tàu vũ trụ tăng tốc đến vận tốc thoát ly. Tình huống này, theo tôi, dường như là nguyên nhân cơ bản của hầu hết mọi vấn đề mà chúng ta đang phải đối mặt.

Chúng ta chắc chắn sẽ thấy thêm nhiều bàn luận về chủ đề quan trọng, phức tạp này trong những năm tới.

Tôi lần đầu tiên được làm quen với khái niệm "công việc vô nghĩa" từ những ngày cấp hai, trước khi nó thu hút sự chú ý của giới lý thuyết đại chúng. Mọi chuyện bắt đầu khi tôi gặp khó khăn trong việc giải thích cho bạn bè và giáo viên rằng cha tôi làm nghề gì. Trải qua nhiều năm, tôi chứng kiến sự kiệt quệ tồn tại lẳng lặng tiếp cận ông một cách có hại - một sự kiệt quệ cơ bản là di sản của bất kỳ ai phải sống cuộc đời xoay quanh cuộc chiến sinh tử cho bầu không khí, chỉ để duy trì sự sống của gia đình; biến một người đàn ông tràn đầy sức sống thành một bộ xương khô cằn. Chưa kể đến việc lớn lên dưới sự chăm sóc của một phụ huynh ngày càng rạn nứt ảnh hưởng như thế nào đến một đứa trẻ. Vì vậy, tôi rất háo hức khi đọc cuốn sách này nhưng ưm....

Một trong những đặc điểm của công việc vô nghĩa là thiếu vắng tác động rõ rệt đối với thế giới, hoặc tồi tệ hơn, là tác động xấu đến thế giới. Nhà tâm lý học người Đức Karl Groos phát hiện ra, ngay từ năm 1901, rằng trẻ sơ sinh biểu hiện niềm hạnh phúc phi thường khi chúng bắt đầu có khả năng gây ra những tác động dự đoán được trong thế giới. Chúng ta được gắn kết với hành động một cách triết học - cơ sở của tất cả trải nghiệm con người là niềm vui của sự sáng tạo. Khi cơ sở này bị chối từ, khao khát sống của chúng ta bị gập lại một cách thụ động và cuối cùng rút lui hoàn toàn khỏi thế giới. Nhà phân tâm học Francis Broueck gọi đây là 'chấn thương của sự ảnh hưởng thất bại.'

Cánh tả chính thống vẫn cúng bái trước bàn thờ của bóng ma siêu ma cà rồng: Vốn. Nhưng liệu đây có phải là chủ nghĩa tư bản mà chúng ta có thể nhận ra từ các tác phẩm của Adam Smith hay Karl Marx? Graeber gợi ý rằng nó giống như chủ nghĩa phong kiến ​​cổ điển. Nó toát lên mùi vị của sự liên kết Puritan với công việc như một giá trị tự thân. Lao động có tiền công đã tồn tại ở châu Âu thời Trung Cổ nhưng đó là điều mà mọi người chỉ tham gia trong giai đoạn đầu của cuộc đời họ. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, những mối quan hệ tạm thời này đã được củng cố thành mối quan hệ lao động có tiền công vĩnh viễn. Công việc truyền thống được sử dụng để chuẩn bị cho thanh niên cho cuộc sống nhưng dưới chủ nghĩa tư bản, nó không thể dẫn đến một tuổi trưởng thành không còn phải làm việc nữa. Tầng lớp trung lưu Puritan bắt đầu hoảng sợ trước sự nổi loạn của mọi người chống lại hệ thống này và bắt đầu tẩy não tầng lớp lao động với niềm tin rằng lao động cực nhọc như một giá trị tự thân và lòng từ thiện là dấu hiệu của sự ưu ái của Chúa. Thời kỳ hậu Cách mạng Công nghiệp đã chứng kiến ​​sự trỗi dậy của xu hướng này. Rõ ràng chúng ta vẫn coi công việc là một giá trị tự thân. Graber phỏng đoán rằng có lẽ đây là lý do tại sao những nghề nghiệp như giáo viên có giá trị xã hội cao hơn luật sư doanh nghiệp lại bị trả lương thấp đến vậy. Bởi vì chúng ta tin rằng sự hài lòng từ một công việc làm tốt là đủ trong những trường hợp này? Đòi hỏi nhiều tiền hơn, nhiều ngày nghỉ hơn là điều lố bịch và ích kỷ. Chủ nghĩa phong kiến ​​quản lý là thứ chúng ta đang sống dưới ngày nay, và việc làm "bullshit" là hậu quả trực tiếp của điều đó.

Ngày nay, chúng ta có đủ khả năng công nghệ để tạo ra một thế giới mà ở đó mọi người không cần phải làm việc quá 15 giờ một tuần. Vậy tại sao chúng ta chưa làm điều đó? Câu trả lời thông thường là chúng ta đã cùng nhau chọn lối sống tiêu dùng hơn là giảm giờ làm việc. Và tất nhiên, điều này tạo nên một khóa học đạo đức ngắn gọn về lòng tham tự hủy diệt tiềm ẩn trong con người. Nhưng sự bùng nổ chưa từng có của công việc giấy tờ trong các ngành hành chính và dịch vụ cũng như sự "bullshitisation" của nền kinh tế dường như phản bác lại lý thuyết của chủ nghĩa tư bản tự do.

Một nền kinh tế và xã hội dựa trên ngành tài chính, sự oán giận, sự mất cảm xúc, và chủ nghĩa phát xít tiềm ẩn trong chúng ta tất cả: điều gì có thể sai sót?

Tôi thực sự thích David Graeber nhưng tôi không thực sự thích cuốn sách này. Ông đưa ra những khái quát chung và sự phong phú của "dữ liệu thực nghiệm" có mùi vị của sự lựa chọn thiên vị. Tuy nhiên, tôi sẵn lòng nhìn nhận theo một cách khác và giới thiệu nó cho những người không am hiểu về lý thuyết hoặc không quan tâm đến việc đấu tranh lý thuyết nặng nề: nó có thể thực sự là một cuốn sách tuyệt vời!

Phản ứng của tôi đối với cuốn sách này hoàn toàn chủ quan và không phản ánh bất kỳ công lao nào của nó... được, có thể là một số cách. Tôi sẽ đánh giá nó ba sao nếu nó không giống như thể tôi đã viết, bởi đó không phải là lời khen ngợi cho một học giả có tầm vóc như ông. Cuốn sách này đạt đỉnh trong lời tựa và đi xuống ngay từ chương đầu tiên. Tôi mất gần hai tháng để hoàn thành vì nó quá nhàm chán! Nhưng tôi thích cách ông viết rõ ràng, thẳng thắn, và may mắn thay, trải nghiệm tầm thường này không làm tôi nản lòng khám phá các tác phẩm nhân chủng học của ông.

Đây là một cuốn sách mở mang tầm mắt và phản đối, đã thay đổi cách tôi nhìn nhận về công việc. Các chính trị gia và kinh tế gia luôn ca ngợi công việc là tuyệt vời - công việc có thể sửa chữa mọi thứ và khiến cho chủ nghĩa tư bản hoạt động một cách trơn tru. Cuốn sách này đã đặt câu hỏi với giả định đó.

Tôi đánh giá cuốn sách này năm sao trên tổng số năm sao bởi vì nó mở ra một chủ đề mới và đặt ra những câu hỏi mạnh mẽ mà trước đây chưa từng được xem xét.

Theo quan điểm của tác giả, định nghĩa của một công việc vô nghĩa là "một hình thức làm việc hoàn toàn vô ích, không cần thiết, hoặc có hại đến mức ngay cả nhân viên cũng không thể biện minh cho sự tồn tại của nó". Ông để quyết định xem cái gì tạo nên một công việc vô nghĩa cho chính nhân viên, vì họ biết rõ nhất liệu công việc của họ có ý nghĩa hay lợi ích xã hội hay không. Trong một cuộc khảo sát đáng buồn, ông nói rằng gần 40% người được hỏi thừa nhận công việc của họ là vô nghĩa - không thực sự cần thiết và không hiệu quả. Họ có thể làm việc chỉ vài giờ một tuần để thực hiện các nhiệm vụ vô bổ và dành phần còn lại của thời gian trên internet hoặc dự án cá nhân trong khi giả vờ trông bận rộn.

Tác giả phân biệt giữa công việc tệ, những công việc trả lương thấp nhưng cần thiết, và công việc vô nghĩa, những công việc trả lương cao nhưng lãng phí. Ông nói rằng công việc vô nghĩa, vì thiếu ý nghĩa, phải trả lương cao hơn để giữ người lao động, trong khi công việc bình thường như giảng dạy, công tác cảnh sát, vệ sinh, và nấu ăn ít nhất có một số lợi ích nội tại cho người lao động.

Nửa sau của cuốn sách này đi sâu vào một số cuộc thảo luận kinh tế và triết học sâu sắc về lý do tại sao những loại công việc này tồn tại và điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả chúng đều bị loại bỏ. Mọi người sẽ làm gì? Nó xem xét lịch sử của công việc và cách mà đạo đức làm việc của người Puritan bắt đầu và nhìn vào những gì đã xảy ra trong năm mươi năm qua khi những lợi ích về năng suất đã làm cho lao động chân tay trở nên kém quan trọng hơn.

Graeber đặt ra một số câu hỏi khó khăn và quan trọng, mà tôi nghi ngờ rằng không nhiều người hào hứng đối mặt, ngay cả khi nền kinh tế của chúng ta tiếp tục loại bỏ những công việc đang bị máy móc thay thế. Tại sao mọi người không thể làm việc 15-20 giờ mỗi tuần? Tại sao chúng ta phải chơi trò giả vờ làm việc khi không có gì để làm? Có những công việc nào gây hại nhiều hơn lợi? Tác giả đưa ra ý tưởng về thu nhập cơ bản toàn cầu, đã được bàn luận và sẽ tiếp tục được đề cập trong tương lai. Những người không làm việc gì cả bị xấu hổ và cảm thấy kém cỏi, trong khi những người giả vờ làm việc có thể cảm thấy tự cao, nhưng bí mật cảm thấy tội lỗi. Đó là một hệ thống lộn xộn mà tôi đã chứng kiến cá nhân trong một số công việc vô nghĩa.

Quyển sách kỳ lạ. Đọc được 50 trang và tôi chỉ đánh giá nó 2 sao. Luận điểm về "Công việc Vô nghĩa" được trình bày không thuyết phục và nội dung chính của sách khá mơ hồ, để nói một cách lịch sự. Graeber rõ ràng có những ý tưởng lớn, nhưng tôi chưa tìm ra cách tiếp cận chúng. Sau đó... anh ấy bắt đầu trở nên rõ ràng hơn cả về thông điệp lẫn cách diễn đạt và tôi đã bị cuốn hút.

Đây là một cuốn sách về kinh tế, đúng như tôi mong đợi, nhưng nó nghiêng về phía cực tả. Luận điểm cơ bản nhất là nền kinh tế thế giới thứ nhất dựa trên rất nhiều công việc hoàn toàn không cần thiết và nếu mọi người chỉ được cấp tiền để sống (thu nhập cơ bản phổ cập) thì họ sẽ (có lẽ) làm những việc có giá trị hơn đối với bản thân, điều này có nghĩa là có giá trị hơn đối với thế giới.

Dù tôi là người cực tả, tôi không đồng tình với tất cả những gì anh ấy nói, có lẽ vì quan điểm bi quan của tôi về bản chất con người, nhưng tôi thực sự thích cuộc thảo luận này. Tôi cho rằng những sự thật và lý lẽ của anh ấy về lý do tại sao có nhiều công việc vô nghĩa là vững chắc và thuyết phục, ý tưởng của anh ấy về những gì mọi người sẽ làm với thu nhập cơ bản phổ thông thì ít hơn.

Tôi rất vui vì đã đọc nó và sẽ tìm đọc cuốn sách chính khác của anh ấy, không chắc tôi sẽ giới thiệu cuốn này cho ai, có lẽ chỉ những người đam mê kinh tế hoặc bất kỳ ai muốn tham gia vào phong trào UBI.

Những người giữ công việc vô nghĩa (tầng lớp trung/cao) do đó hợp tác trong việc làm khổ những người có công việc không vô nghĩa, dựa trên ý tưởng rằng có một công việc thực sự có ích là đủ hấp dẫn; một mức lương đủ sống sẽ là quá nhiều. Nhóm này (nhóm của tôi) phản đối thực tế là những người làm công tác vệ sinh, nhân viên tàu điện ngầm, công nhân lắp ráp ô tô, và những người khác thực sự quan trọng đối với hoạt động của cuộc sống thường nhật. Đây thường là những công việc tồi tệ, xấu theo cách riêng của chúng và xứng đáng được cải thiện, nhưng không phải là vô nghĩa: “Công việc vô nghĩa thường trả lương khá tốt và có điều kiện làm việc xuất sắc. Chúng chỉ là không có mục đích. Công việc tồi tệ thường không hề vô nghĩa; chúng thường liên quan đến công việc cần phải làm và rõ ràng có lợi cho xã hội; chỉ là những người làm công việc đó được trả lương và đối xử không tốt.” Điều này cũng liên quan đến giới tính: phụ nữ thường kết thúc trong những công việc tồi tệ, nhưng ít có khả năng cảm thấy công việc của họ là vô nghĩa. Trong quá trình tương tác với những người làm công việc dịch vụ để tìm kiếm định nghĩa về công việc vô nghĩa, Graeber kết luận rằng hầu hết họ không nghĩ công việc của họ là vô nghĩa, ngoại trừ những người cung cấp công nghệ thông tin (IT), những người bán hàng qua điện thoại, và những người làm công việc tình dục—hai nhóm đầu tiên có xu hướng nghĩ rằng họ cơ bản là tham gia vào những trò lừa đảo, trong khi nhóm thứ ba được trả lương cao hơn nhiều cho công việc không tận dụng hết khả năng con người của họ so với công việc sẽ thu hút họ hơn. Graeber coi đây là dấu hiệu cho thấy chúng ta đang sống trong một xã hội vô nghĩa.

Graeber cho rằng sự phẫn nộ của chúng ta đối với giáo viên và công nhân là kết quả của lòng ghen tị về mặt đạo đức: họ dường như đang duy trì một tiêu chuẩn đạo đức cao hơn chúng ta, bằng cách làm công việc thực sự hữu ích. Do đó, những cuộc tấn công của Đảng Cộng hòa vào các quản trị viên trường học đã giảm bớt, trong khi những cuộc tấn công vào giáo viên lại tăng vọt. "Giáo viên được nhìn nhận là những người đã công khai tự nguyện hy sinh và có tinh thần công cộng, là những người muốn được gọi sau hai mươi năm và nghe lời cảm ơn, cảm ơn vì tất cả những gì bạn đã làm cho tôi. Đối với những người như vậy mà thành lập công đoàn, đe dọa đình công, và đòi hỏi điều kiện làm việc tốt hơn được coi là gần như giả tạo." [Tôi hy vọng những sự kiện gần đây cho thấy điều này đang bắt đầu thay đổi ở Mỹ.]

Graeber thách thức quan điểm thông thường rằng nhiều công việc vô bổ nằm trong chính phủ; ông cho rằng có ít nhất là nhiều công việc tương tự về tỷ lệ trong doanh nghiệp tư nhân. Động cơ lợi nhuận không kiểm soát được điều này - nó dẫn đến việc lao công và công nhân bị sa thải hoặc được thuê ngoài, nhưng không phải quản lý - bởi vì những người cao hơn trong hệ thống cầu thang muốn có một hệ thống cầu thang: một người quản lý chỉ quản lý robot thì không phải là người quản lý. Do đó, mỗi giám đốc phải có một số người "lao động" dưới quyền họ.

Graeber cho rằng căn bệnh xã hội này giải thích nhiều điều, chẳng hạn như tại sao sinh viên thường phải làm những công việc vô nghĩa để hỗ trợ giáo dục của họ - việc học cách tự học là một chuyện, nhưng không phải là học cách làm việc theo mệnh lệnh, điều mà hệ thống hiện tại của chúng ta yêu cầu hầu hết mọi người. Những công việc vô nghĩa cũng dạy sinh viên "cách giả vờ làm việc ngay cả khi không cần phải làm gì; rằng người ta không được trả tiền để làm những việc, dù có ích hay quan trọng, mà người ta thực sự thích; rằng người ta được trả tiền để làm những việc không hề có ích hay quan trọng mà người ta không thích; và ít nhất trong những công việc đòi hỏi tương tác với công chúng, ngay cả khi người ta được trả tiền để thực hiện nhiệm vụ mà người ta không thích, người ta cũng phải giả vờ rằng mình đang thích thú."

Trong xã hội bệnh hoạn của chúng ta, chúng ta cho rằng con người thích trở thành ký sinh trùng, trong khi Graeber cho rằng hầu hết mọi người thích làm những việc có ích. Nhưng theo lịch sử, hầu hết công việc của con người được thực hiện trong những cơn bùng nổ lao động căng thẳng theo sau là nghỉ ngơi - trồng trọt, sau đó là tụ tập và tán gẫu, rồi thu hoạch. Ngay cả dưới sự bất bình đẳng gay gắt, sự giám sát chặt chẽ thường không cần thiết cho công việc hàng ngày; miễn là lãnh chúa nhận được phần của mình từ vụ mùa, ông ta không quan tâm đến việc nó diễn ra như thế nào. Một khi sự giám sát trở thành một vấn đề, các giám sát viên không thể chịu đựng việc nhìn nhân viên của họ tụ tập và tán gẫu, vì vậy họ đã phát minh ra công việc vớ vẩn để làm. "Đạo đức hiện đại của 'Bạn đang ở trong thời gian của tôi; tôi không trả tiền cho bạn để bạn ngồi không' là ... sự nhục nhã của một người đàn ông cảm thấy mình đang bị cướp. Thời gian của một người lao động không phải là của họ; nó thuộc về người đã mua nó."