Cho đến nay Trăm năm cô đơn vẫn là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của Gabriel Garcia Márquez, nhà văn Columbia, người được giải Nobel về văn học năm 1982.

Trăm năm cô đơn ra đời (1967) đã gây dư luận sôi nổi trên văn đàn Mỹ Latinh và lập tức được cả thế giới hâm mộ. Sau gần hai mươi năm, Trăm năm cô đơn đã có mặt ở khắp nơi trên hành tinh chúng ta để đến với mọi người và mọi nhà.

Trăm năm cô đơn là câu chuyện về dòng họ Buênđya tồn tại bảy thế hệ, người đầu tiên bị trói vào gốc cây và người cuối cùng bị kiến ăn, một dòng họ tự lưu đày vào cõi cô đơn để trốn tội loạn luân. Trong cõi cô đơn ấy, những Accađiô, Aurêlianô, Rêmêđiôt và những Amaranta đã ra đời, sống với số phận bi đát như đã được định trước: lay lắt trong nỗi cô đơn và hoài nhớ, thấp thỏm lo phạm tội loạn luân. Nhưng rồi họ yêu nhau mãnh liệt và lấy nhau với hy vọng tình yêu sẽ cải tạo nòi giống mình. Nhưng họ vẫn đẻ ra những đứa con có đuôi lợn và chính nó đã kết liễu dòng họ Buênđya.

Trăm năm cô đơn là lời kêu gọi mọi người hãy sống đúng bản chất người – tổng hòa các mối quan hệ xã hội – của mình, hãy vượt qua mọi định kiến, thành kiến cá nhân, hãy lấp bằng mọi hố ngăn cách cá nhân để cá nhân mình tự hòa đồng với gia đình, với cộng đồng xã hội. Vì lẽ đó Garcia Márquez từng tuyên bố cuốn sách mà ông để cả đời sáng tác là cuốn sách về cái cô đơn và thông qua cái cô đơn ông kêu gọi mọi người đoàn kết, đoàn kết để đấu tranh, đoàn kết để chiến thắng tình trạng chậm phát triển của Mỹ Latinh, đoàn kết để sáng tạo ra một thiên huyền thoại khác hẳn. Một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận mình ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự, và nơi những dòng họ bị kết án trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai để tái sinh trên mặt đất này.

Người đọc tìm đến với Trăm năm cô đơn bởi đó là cuốn sách văn học thực sự mang hơi thở đời sống hiện đại – cuốn sách của niềm tin và những số phận con người.

Trích dẫn

Rất nhiều năm sau này, trước đội hành hình, đại tá Aureliano Buendía đã nhớ lại buổi chiều xa xưa ấy, cái buổi chiều cha chàng dẫn chàng đi xem nước đá. Thời ấy Macondo là một làng gồm vài chục nóc nhà tranh vách đất dựng bên bờ con sông nước trong như pha lê, ào ào chảy qua những tảng đá nhẵn thín, trắng bong, to như những quả trứng thời tiền sử. Thế giới lúc ấy còn ở buổi hồng hoang, chưa có tên gọi các đồ vật và để gọi chúng cần phải dùng ngón tay chỉ đích vào từng cái một. Cứ vào tháng ba hàng năm, một gia đình digan rách rưới dựng một túp lều bạt ngay cạnh làng, rồi với tiếng kèn trống om xòm quảng cáo những phát minh mới. Ðầu tiên, họ mang tới đá nam châm. Một người digan lực lưỡng, hàm râu lởm chởm, bàn tay lông lá, tự giới thiệu mình tên là Melquíades, làm ngay một thí nghiệm kinh rợn trước công chúng về cái mà chính ông ta gọi là kỳ quan thứ tám của các thuật sĩ luyện đá giả kim uyên bác xứ Macedonia. Từ nhà này sang nhà khác ông ta kéo hai thỏi kim loại đã nhiễm từ, và thế gian kinh ngạc khi nhìn thấy xanh, chảo, vạc, kìm, bếp lò rơi đổ ngổn ngang, đồ gỗ kêu cọt kẹt bởi đinh, ốc vít đang như muốn tuột ra khỏi chúng, và hơn nữa, những vật bằng sắt bị mất từ lâu bỗng lại ló ra ở ngay nơi chủ nó từng mất công tìm kiếm. Rồi sau đó, mọi người bị lôi cuốn đổ ra đường, lũ lượt, ồn ĩ theo sau những trò ảo thuật đầy thích thú của Melquíades. “Mỗi một vật đều có cuộc sống”, người digan quảng cáo với giọng lanh lảnh, “vấn đề là ở chỗ biết đánh thức tâm hồn nó”. José Arcadio Buendía, người có trí tưởng tượng thường đi xa hơn cả bản thể của giới tự nhiên và còn vượt quá rất xa những phép màu và trò huyền ảo, nghĩ rằng có thể sử dụng phát minh vô bổ ấy vào việc moi vàng từ trong lòng đất. Melquíades, vốn là người cao thượng, nói trước cho ông biết: “Ðồ này không dùng vào việc ấy được” Nhưng José Arcadio Buendía lúc ấy vẫn không tin đức tính cao thượng của người dân digan, vì vậy đã đổi ngay một con lừa và một cặp dê đực để lấy hai thanh nam châm. Úrsula Iguarán, vợ ông, từng nghĩ tới việc dùng những gia súc này vào việc mở rộng ngôi nhà ở của họ vốn dĩ tồi tàn, đã không thuyết phục được ông. “Ôi dào, rồi chúng ta sẽ có ối vàng để xây nhà, lo gì mình ơi”, ông cãi lại. Trong vài tháng liền, ông trần lưng làm việc để biến những dự đoán của mình thành hiện thực. Ông đào bới cặn kẽ khắp vùng, kể cả dưới lòng sông, rồi kéo rê hai thanh nam châm, khấn rõ to lời cầu nguyện của Melquíades. Vật duy nhất mà ông đào bới được là một bộ giáp trụ từ thế kỷ XV, bị lớp han rỉ phủ kín, bên trong như một quả bí khổng lồ chứa đầy đá Khi José Arcadio Buendía và bốn người đàn ông trong đội khai quật của mình tháo rời được bộ giáp trụ này, họ thấy một bộ xương người đã hóa vôi, cổ còn lủng lẳng đeo một hộp thánh tích bằng đồng đựng mớ tóc phụ nữ.

Những người digan trở lại làng vào tháng ba. Lần này họ mang theo một kính viễn vọng và một kính lúp có mặt gương to bằng mặt trống, họ trưng bày chúng như thể trưng bày phát kiến mới nhất của những người Do Thái ở Amsterdam. Họ cho một cô digan ngồi ở đầu làng và đặt cái kính viễn vọng ở ngay cửa vào của túp lều bạt. Sau khi trả năm đồng real, dân chúng ghé mắt vào kính viễn vọng và họ nhìn thấy cô digan ở ngay trong tầm tay mình. “Khoa học đã rút ngắn khoảng cách”, Melquíades quảng cáo: “Chẳng bao lâu, không cần phải ra khỏi nhà mình, con người đã có thể biết được bất kỳ điều gì xảy ra trên trái đất”. Một buổi trưa nóng bỏng, bọn họ làm một thử nghiệm khủng khiếp bằng chiếc kính lúp khổng lồ: chồng một đống cỏ khô ở giữa đường rồi lấy kỉnh lúp chiếu tia mặt trời vào, thế là cả đống cỏ bùng cháy. José Arcadio Buendía, người vẫn chưa nguôi buồn về sự thất bại của việc dùng nam châm tìm vàng, lại nẩy ra ý định sử dụng phát minh ấy như một thứ vũ khí. Một lần nữa, Melquíades lại khuyên can ông. Nhưng rồi chính Melquíades phải nhận lại hai thanh nam châm và nhận thêm ba đồng tiền thời thuộc địa để đổi cho José Arcadio Buendía chiếc kính lúp. Úrsula khóc lóc thảm thiết. Số tiền ấy là một phần của túi tiền vàng mà cha bà đã tích cóp trong suốt cuộc đời ăn đói mặc rách và bà đã chôn chúng dưới gầm giường chờ dịp cần thiết mới tiêu đến. José Arcadio Buendía, ngay đến an ủi vợ cũng không có ý định, đã vội dốc toàn lực vào những việc thí nghiệm với đam mê của một nhà khoa học và hơn thế nữa còn dấn thân vào những nguy hiểm chết người. Ðể làm rõ hiệu quả của kính lúp đối với quân địch, chính ông đã tự mình đứng ngay vào vùng ánh sáng là nơi kính lúp đã hội tụ tia nhiệt mặt trời, và ông bị bỏng, những vết bỏng này trở thành ung nhọt phải mất nhiều thời gian mới chữa lành. Suýt nữa ông đốt nhà vì không thể chịu nổi những lời rỉa rói của bà vợ, người từng cảnh giác trước nỗi nguy hiểm của phát minh này. Ông ở lỳ trong phòng mình nhiều giờ liền, tính toán về những khả năng chiến lược của thứ vũ khí mới sáng chế, cho đến khi ông viết được một bản chỉ dẫn mạch lạc có tính sư phạm và đầy sức thuyết phục. Ông gửi nó cho nhà chức trách, có kèm nhiều bằng chứng của kinh nghiệm bản thân và vài bản vẽ thuyết trình. Ông giao nó cho một sứ giả mang đi. Người này đi xuyên rừng, bị lạc trong đầm lầy đáng sợ, vượt qua những con sông cuộn sóng, suýt nữa thì mất mạng vì thú dữ, vì thất vọng và dịch bệnh, trước khi tìm thấy con đường mà những con lừa của người đưa thư vẫn qua lại. Mặc dù đường đi đến thủ đô thời ấy là rất khó khăn, José Arcadio Buendía đã dự định sẽ chế tạo rất nhanh thứ vũ khí này nếu như chính phủ ra lệnh thử nó ngay trước mặt các nhà quân sự và ông sẽ đích thân hướng dẫn cho họ về nghệ thuật phức tạp của chiến tranh sử dụng năng lượng mặt trời. Trong nhiều năm liền ông chờ đợi thư phúc đáp của chính phủ. Cuối cùng, chán chường vì chờ đợi, ông đành phải than phiền với Melquíades về sự thất bại của công việc vừa ở bước khởi đầu. Vậy là người digan lại có dịp bày tỏ tư chất cao thượng của mình: trả lại ông những đồng tiền Doblón để lấy lại chiếc kính lúp ngoài ra còn để lại một số tấm bản đồ của người Bồ Ðào Nha, và một vài dụng cụ đi biển. Tự tay mình, Melquíades còn viết một bản tổng kết chặt chẽ về những nghiên cứu của thày tu Hermann, rồi đặt vào vị trí của nó để ông có thể sử dụng kính thiên văn, la bàn và thước đo góc 60 độ. Trong những năm tháng mưa dài lê thê, José Arcadio Buendía ở lỳ trong cái phòng nhỏ làm ở cuối nhà để không một ai quấy rầy mình trong lúc làm thí nghiệm. Nhờ hoàn toàn bỏ thói quen ăn, ngủ đúng giờ, ông ở ngoài sân suốt đêm để theo dõi đường đi của các vì sao và suýt nửa mắc bệnh đau đầu vì ý muốn xây dựng một phương pháp chính xác để tìm phương Nam. Khi đã thành thạo sử dụng và điều khiển các dụng cụ, ông có ý niệm về một khoảng không gian mênh mông cho phép ông đi thuyền trên những biển xa lạ, đến những miền đất hoang vu không bóng người và kết bạn với những người hiển hách mà không cần phải ra khỏi bàn làm việc của mình. Ðấy là thời kỳ ông mắc tật nói một mình, đi dạo khắp nhà chẳng để ý tới ai trong lúc Úrsula và bọn nhóc nhổ cỏ trong vườn, chăm bón chuối và khoai sọ sắn và củ từ, bí ngô và cà dái dê. Không một dấu hiệu báo trước nào, bỗng nhiên ông ngừng mọi hoạt động sôi nổi để chìm đắm trong suy tưởng. Vài ngày liền, ông cứ như người bị bỏ bùa mê, giọng thì thầm nhắc đi nhắc lại cho chính mình nghe hàng loạt những phỏng đoán đầy kinh ngạc mà ông không cần tin vào sự hiểu biết của chính mình. Cuối cùng, vào giờ ăn trưa, một ngày thứ ba tháng chạp, ông xổ tung tất cả nỗi căng thẳng trong tâm tưởng mình. Bọn trẻ cả đời sẽ nhớ mãi vẻ trang trọng của cha chúng khi ông ngồi vào đầu bàn, người run rẩy lên cơn sốt, gầy rộc đi vì công việc quan sát kéo dài và vì lòng chua xót bởi trí tưởng tượng. Ông đã công bố cho chúng biết phát kiến của mình: “Trái đất tròn như thể quả cam ấy?“ Bà Úrsula không chịu được nữa. “Nếu ông có điên thì một mình ông điên thôi”, bà gào, “nhưng xin ông chớ có nhồi sọ bọn trẻ những ý nghĩ bông lông của mình nhét. José Arcadio Buendía lặng thinh, không để cho mình sợ hãi trước cơn thất vọng của bà vợ mà trong lúc bực mình bà đã quẳng kính thiên văn xuống sàn nhà làm nó vỡ toang. Ông làm cái khác và tụ tập những người đàn ông trong làng ở ngay trong phòng nhỏ rồi bằng thứ lý thuyết khó hiểu đối với bọn người này ông đã chứng minh cho họ thấy khả năng trở lại điểm xuất phát ban đầu nếu cứ nhằm hướng đông cho tàu thuyền chạy. Cả làng đều nhất loạt đồng ý với nhau rằng José Arcadio Buendía đã mất trí. Giữa lúc ấy, Melquíades trở lại để dàn xếp mọi việc. Ông công khai biểu dương trí thông minh của con người bằng việc đơn thuần nghiên cứu thiên văn, đã xây dựng được một lý thuyết từng được công nhận trong thực tiễn mặc dù cho đến lúc ấy ở làng Macondo vẫn chưa ai biết tới, và để bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình ông đã tặng lại José Arcadio Buendía một phòng thí nghiệm giả kim, một kỷ vật sẽ gây ảnh hưởng quyết định đối với tương lai của làng này.

Vào thời ấy, Melquíades già đi nhanh đến mức ai cũng phải ngạc nhiên. Trong những chuyến đầu tiên đến làng này hầu như ông cùng trạc tuổi với José Arcadio Buendía. Nhưng trong lúc ông này vẫn giữ được sức khỏe vâm váp của mình, cái sức chỉ cầm hai tai con ngựa có thể quật ngã nó, thì người digan dường như đã bị suy nhược bởi những đau đớn khủng khiếp. Thực ra đó là hậu quả của rất nhiều thứ bệnh lạ lùng do ông nhiễm phải trong những chuyến du lịch vòng quanh thế giới. Theo như chính lời ông kể với José Arcadio Buendía trong lúc giúp ông này dựng phòng thí nghiệm thì thần chết đuổi theo ông khắp miền, nó cứ đánh hơi ống quần ông mà theo riết nhưng vẫn không túm được ông. Cuộc đời ông là cả một cuộc trốn chạy trước không biết bao nhiêu thứ tai ương và hoạn nạn đã giống xuống đầu cái giống người. Ông qua khỏi bệnh phong ở Ba Tư, bệnh hoại huyết ở quần đảo Mã Lai, bệnh hủi ở Alexandria, bệnh phù thũng ở Nhật Bản, bệnh dịch hạch ở đảo Madagascar, nạn động đất ở Sicily và nạn đắm tàu xảy ra thường ngày ở eo biển Magallanes[4]. Cái con người kỳ vĩ đó, người từng nói rằng mình nắm được các bí quyết của Nostradamus[5], là một người mang vẻ buồn rầu, bởi mặt trời buồn bao quanh ông, với con mắt Á châu dường như đã biết được mặt trái của sự vật. Ông dùng một chiếc mũ rộng vành màu đen nom như cánh quạ xòe và một chiếc áo nỉ khoác ngoài bị rêu xanh hàng thế kỷ phủ lên. Nhưng dù có sức hiểu biết quảng bác là thế và có môi trường hoạt động bí hiểm là thế, ông vẫn có một tư chất người, một tư chất thế tức, là cái làm cho ông gắn bó với những vấn đề nhỏ nhặt của cuộc sống thường ngày: ông than vãn về những mệt mỏi của tuổi già, do phải chịu đựng hoàn cảnh kinh tế túng thiếu, và từ lâu ông không mỉm cười vì bệnh hoại huyết đã nhổ hết răng. José Arcadio Buendía hiểu rõ rằng cái buổi trưa ngột ngạt Melquíades đã bộc bạch những chuyện riêng tư của đời mình mãi mãi sẽ là ngọn nguồn của một tình bạn vĩ đại. Bọn trẻ đầy thán phục trước những câu chuyện huyền thoại của ông. Aureliano, lúc ấy chưa quá năm tuổi, sẽ phải nhớ suốt đời hình ảnh Melquíades mà cậu đã được nhìn thấy: ông ngồi để cho ánh sáng chói chang trắng bạc từ cửa sổ chiếu vào mặt, trong lúc mồ hôi ròng ròng chảy trên hai thái dương và với giọng nói trầm vang của cây đại phong cầm ông đã rọi ánh sáng vào những miền tối tăm nhất của trì tưởng tượng. José Arcadio, ông anh cậu có lẽ sẽ di lại cho con cháu mình cái hình ảnh kỳ diệu ấy như di lại một kỷ vật truyền đời. Trái lại, Úrsula lại giữ mãi kỷ niệm xấu về chuyến thăm viếng ấy, bởi vì bà bước vào phòng đúng lúc Melquíades do đãng trí đã làm vỡ một chai thủy ngân.

 

Nguồn: downloadsach.com 

------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn/

Trở thành CTV viết reviews sách để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị cùng Bookademy, gửi CV (tiếng Anh hoặc Việt) về: [email protected] 

Xem thêm

Ngay từ tựa đề, “Trăm năm cô đơn” hiện lên với một sự mệt mỏi, chán chường và sẵn sàng thách thức bất cứ ai có ý định chinh phục gần 500 trang sách của nó. Đó là một nỗi sợ hãi vô hình, sự ngần ngại được tổng hòa từ những yếu tố như: văn học kinh điển; tác phẩm được đánh giá cao nhất của tác giả đoạt giải Nobel Văn học năm 1982; những cái tên xa lạ và khó đọc đến từ vùng đất Mỹ La tin; một bảng gia phả chằng chịt khiến ta hoa mắt,… Trên hết, có mấy ai thích nỗi cô đơn, mà lại còn là một trăm năm cô đơn. Thế nhưng thiên tiểu thuyết của Gabriel García Márquez bằng cách khai thác sự cô đơn trong tận xương tủy của một dòng họ 7 thế hệ, đã lôi cuốn người ta đắm mình vào câu chuyện dài dằng dặc kéo dài hơn 100 năm đó. Mình thì không dám nhận xét là cuốn sách này hay hay dở, bởi vì thời gian, những giải thưởng, những lời tán dương mà người ta dành cho nó đã quá đủ để minh chứng cho giá trị của tác phẩm. Bằng cảm nhận và vốn hiểu biết ít ỏi của bản thân mình, bài viết này muốn mang đến cho những ai chưa đọc “Trăm năm cô đơn” một “động lực” để trải nghiệm nó, bằng cách nêu lên một vài điểm mà mình thấy hay trong tác phẩm đồ sộ này của G.G.Márquez.

Cốt truyện của “Trăm năm cô đơn” được gói gọn trong sự hình thành và suy vong của dòng họ Buendía, từ điểm khởi đầu là José Arcadio Buendía và Úrsula Iguarán vì chạy trốn tội loạn luân mà đi đến vùng đất mới và lập nên làng Macondo, cho đến điểm kết thúc là cậu bé Aureliano có đuôi lợn đã thiệt mạng ngay sau khi được sinh ra vì bị kiến ăn thịt do là kết quả của một mối tình loạn luân. Bao phủ lên 7 thế hệ của cả dòng họ này là một nỗi lo lắng về sự loạn luân (sợ sinh ra những đứa con có đuôi lợn) và đã được hình tượng hóa bằng một đặc tính cố hữu trong tâm lý những người thuộc dòng họ này - thích sự cô đơn. Mình thích cách mà tác giả đã lấy “nỗi cô đơn” của con người ra để làm “xương sống” cho toàn bộ tác phẩm. Mình đã từng thắc mắc về tựa đề, tại sao một dòng họ trải qua đến 7 thế hệ, vợ - chồng - con - cháu - anh - chị - em - cô - dì - chú - bác đủ cả mà sao lại “cô đơn”? Phải chăng đây là cuốn sách viết về một người trải qua một trăm năm trong sự cô đơn hiu quạnh? Thế nhưng sau khi đã đọc, mình nhận ra sự “cô đơn” trong tác phẩm mang nhiều ý nghĩa hơn thế. Như đã nói, bởi vì hôn nhân của chính mình (cũng là điểm khởi đầu cho dòng họ Buendía) là một mối quan hệ loạn luân nên bà Úrsula Iguarán luôn luôn lo lắng rằng con cháu của mình sinh ra sẽ có đuôi lợn. Rất may là trong cả 6 thế hệ, không có đứa bé nào được sinh ra là kết quả của một mối tình loạn luân, cũng không có cái đuôi lợn nào (cho đến đứa trẻ của thế hệ thứ 7 là Aureliano thì có). Thế nhưng nỗi lo lắng vẫn hiện diện một cách thường trực và đè lên dòng họ này. Tuy không có đuôi lợn, nhưng cái bản chất “thích cô đơn” của những người trong dòng họ lại chính là điểm yếu, là “cái đuôi lợn” mà họ luôn lo sợ. Như một nhát dao chí mạng của số phận, không biết bằng cách nào mà những con người này dù được sinh ra với những đặc tính tốt nhưng cuộc đời luôn phải chịu sự giày vò của nỗi cô đơn sâu trong tâm trí. Sự cô đơn trong tác phẩm được lột tả bằng muôn hình vạn trạng, được nêu lên như là nguyên nhân, là chất xúc tác cho từng hành động, từng suy nghĩ, từng quyết định của nhân vật. Nó xuất hiện nhiều đến mức buộc ta phải đặt câu hỏi rằng liệu nó chỉ đơn giản là thứ biểu trưng cho hình phạt mà cái dòng họ Buendía phải chịu khi chạy trốn tội loạn luân, hay liệu nó còn mang ý nghĩa nào khác khi nhìn toàn cảnh vào toàn bộ tác phẩm.

Đọc Trăm Năm Cô Đơn, tôi có cảm giác mình bước lên một đoàn tàu đi với vận tốc trung bình. Theo đó, cảnh vật bên ô cửa sổ cứ hiện lên rồi lại biến mất như trò đùa của thời gian: hoặc là chúng ta tiến lên, hoặc là chúng ta đang đi vòng tròn, tùy vào nhận thức của từng người. Thứ duy nhất neo giữ tâm hồn chúng ta là niềm tin, nhưng nhiều lúc tôi cũng không chắc niềm tin có thực hay không. Dòng họ Buendía không thiếu niềm tin, mỗi người tin vào những thứ khác nhau, chỉ có duy nhất hai sự thật là thói điên khùng của họ và ngày họ tiêu vong mãi mãi, thì không ai tin- điều đầu tiên thì ít ra còn có cụ Úrsula nhận thấy.

Giống như con người, tin vào nhiều thứ, nhưng lại không tin vào việc bản thân sẽ chết một ngày nào đó. Ngày đó là ngày nào, thì không ai biết rõ. Có thể cũng vì vậy, sự cô đơn sinh ra đồng thời với mỗi con người chăng? Sau đó, người ta lao vào yêu đương, chiến tranh, tích cóp, tin tưởng chỉ để chạy trốn định mệnh cô đơn ấy?

Giống như dòng họ Buendía, tất cả nhân loại đều mang hạn định trăm năm cô đơn ấy và không có cơ hội thứ hai trở lại mặt đất này. Cô đơn và cái chết là hình phạt hay món quà? Câu hỏi đó thuộc về những con người đang sống.

Nếu mong muốn tìm đọc một bài review kèm theo những hình ảnh minh họa đẹp mắt và đi vào phân tích các khía cạnh chi tiết về từng tình huống, từng nhân vật, thì có lẽ bài review của tôi chưa khiến bạn thỏa mãn. Nhưng dù sao cũng cảm ơn bạn đã đọc đến đây.

Để thưởng thức trọn vẹn tác phẩm Trăm Năm Cô Đơn, bạn hãy trực tiếp đọc nó. Sau đó bạn có thể viết hoặc không viết review, nhưng tác phẩm đó chắc chắn sẽ nằm lại trong tâm trí của bạn và trở thành một phần trong tâm hồn, tính cách của bạn. Tôi chúc cho phần nằm lại đó sẽ là những điều đẹp đẽ, thay vì phải già đi trăm tuổi sau khi đọc xong. Nếu bạn thích cô đơn, thì bạn vẫn có thể rời xa nó, nhưng nếu bạn hiểu sự cô đơn rồi, thì bạn và sự cô đơn trở thành một. Bạn có thể thực sự thích tác phẩm mà không nhất thiết phải hiểu nó hoàn toàn. Vì tôi nghĩ, người viết ra nó cũng chưa chắc đã hiểu nó trọn vẹn.

Tôi thường chủ ý tìm đọc những cuốn sách đạt giải Nobel Văn chương. Không phải vì tôi sành sỏi hay khao khát tìm ra điều gì đó siêu việt trong những tác phẩm này. Thứ khiến tôi tìm đến với những cuốn sách ấy là cảm giác về sự khác biệt. Giống như trong một bữa tiệc có rất đông người, bạn sẽ thích việc dành thời gian lâu hơn với ai đó thú vị. Sự thú vị đó như thế nào, tôi không diễn tả chi tiết hơn được nữa.

Nhưng nếu đi vào cụ thể với một cuốn sách, thì Trăm Năm Cô Đơn giúp tôi hình dung về đời sống trăm năm nếu mình đủ trăm tuổi, cho tôi thấy được thời gian là vòng tròn thay vì đường thẳng và thấy được la liệt các trạng thái yêu đương, chiến tranh, tài sản, thí nghiệm, tín ngưỡng, lý tưởng…chỉ là những gương mặt khác nhau của trạng thái cô đơn mà mỗi con người luôn tìm cách trốn tránh.

Trăm Năm Cô Đơn kể về bảy đời của dòng họ Buendía tại ngôi làng Macondo. Ngôi làng do thế hệ đầu tiên lập nên và cũng là ngôi làng chôn vùi thế hệ cuối cùng của dòng họ này. Tôi từng nghe một số bạn đọc chia sẻ việc nhớ tên các thành viên trong cây gia phả của dòng họ này tương đối khó, vì họ đặt tên trùng nhau. Nhưng khi khám phá ra rằng thời gian trong cuốn sách này là vòng tròn, thì tôi không bận tâm lắm đến việc nhớ tên các nhân vật nữa. Giống như bà cụ Úrsula Iguarán đã đúc kết lại: những đứa mang tên là Aureliano thì thông minh nhưng đượm buồn còn những đứa tên Jose Acardio thì khỏe khoắn, táo tợn. Bà cụ tinh đời dù mang đôi mắt lòa ấy đã lèo lái dòng họ Buendía khỏi sự đói nghèo, những lời nguyền và sự điên khùng do họ tự chuốc lấy.

Có lẽ, để nhận xét mức độ điên khùng của các nhân vật trong sách hay một người nào đó ngoài đời thực không quá khó, nhưng để nhận xét về sự điên khùng của chính bản thân, lại không hề dễ dàng. Họ hoặc điên khùng, hoặc sống giữa những người điên khùng, thế nên lời nguyền của dòng họ trăm năm cô đơn ấy, ngẫm đến cùng cũng chẳng phải là quá đáng sợ (thậm chí còn may mắn, vì là trăm năm chứ không phải vĩnh cửu). Những thành viên mang họ Buendía cũng ấp ủ lẽ sống của riêng mình như say sưa trong khoái lạc, dấn thân nơi trận mạc để tìm kiếm vinh quang, tạo ra thật nhiều tài sản để đời sống dư dả, yêu cuồng nhiệt người khác hoặc chính bản thân mình, sống khép kín đầy tính sùng đạo hoặc bất cần theo lối vô đạo.

Trong trăm năm đó, tưởng chừng họ sẽ khắc vào lịch sử những dấu mốc hiển hách hay biến Macondo trở thành một thị thành phát triển. Thế nhưng khi tất cả qua đi, thì họ tan vào hư vô để Macondo cũng theo đó hoàn toàn biến mất.

Một trăm năm của dòng họ độc đáo song đơn độc ấy cũng là một trăm năm con người ta sinh ra, lớn lên, già đi rồi chết. Không nhanh, không chậm, tác giả Gabriel Garcia Marquez kể lại câu chuyện với giọng điệu đều đều- thi thoảng pha thêm những tình tiết kì ảo như việc Remedios Người Đẹp bay về trời hay hồn ma cụ Melquides chưa tan biến vì đợi chờ dòng họ Buendía tan biến.

Trăm năm cô đơn, cuốn tiểu thuyết đã góp phần mang đến giải Nobel Văn học danh giá vào năm 1982 cho nhà văn người Colombia: Gabriel Garcia Marquez. Cả câu chuyện là nỗi cô đơn vô tận kéo dài suốt trăm năm của một dòng họ mang nặng mặc cảm cùng những lỗi lầm thời tiên tổ về lời nguyền dành cho những cuộc hôn nhân cận huyết: đứa trẻ sinh ra sẽ mang đuôi lợn trên hòn đảo Macondo.

Từ cốt truyện chính như vậy, G. Marquez đã xây dựng lên cả một làng Macondo rộng lớn với khoảng 60 nhân vật cùng một hệ thống quan hệ chằng chịt giữa họ trong cây gia phả của dòng họ Buendya. Với sự kết hợp giữa sáng tạo và song chiếu huyền thoại đầy độc đáo, mỗi mẫu hình ấy xuất hiện ở Trăm năm cô đơn từ con người cho đến không gian, bối cảnh đều mang đậm tính huyền thoại cùng tầng sâu ẩn dụ. Để từ mỗi hình ảnh đó, giải mã yếu tố huyền thoại, độc giả như thấy được, không chỉ là cách tân, đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết mà còn là cách nhìn nhận con người hết sức hiện sinh của tác giả Gabriel Garcia Marquez.

Huyền thoại hóa ngày càng trở thành yếu tố quan trọng trong văn chương hiện đại và hậu hiện đại. Có nhiều cách thể hiện huyền thoại trong tác phẩm: nhà văn có thể song chiếu huyền thoại, sáng tạo huyền thoại hoặc là sự kết hợp của cả song chiếu với sáng tạo huyền thoại trong một tác phẩm. Mà ở cách thức này, Trăm năm cô đơn của Gabriel Garcia Marquez như một tác phẩm tiên phong. Làng Macondo có thể bị xóa sổ, gia tộc Buendya có thể bị diệt vong nhưng Trăm năm cô đơn với sự thể hiện huyền thoại của G.Marquez sẽ còn mãi với dòng chảy văn chương thế giới.

Trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, mỗi số phận trong dòng họ Buendya nói riêng, mỗi số phận và cả ngôi làng Macondo nói chung, bên cạnh việc là sự song chiếu huyền thoại, còn là những sáng tạo huyền thoại đặc sắc của tác giả.

Ở mẫu đề huyền thoại thông thường: sống – chết – phục sinh, Trăm năm cô đơn là mối tương quan phức tạp giữa cuộc sống và cái chết, giữa ký ức và sự lãng quên, giữa người sống và người chết, không gian và thời gian. Giữa ký ức của những người còn sống, người chết luôn luôn hiện diện, nói chuyện và sinh hoạt với người sống như chưa từng có cách biệt âm dương: sự đeo bám của bóng ma Prudenxio Aghila đến tận giây phút cuối đời của Hose Acadio Buendya, sự gặp gỡ giữa Menkyadet với những hậu duệ của gia tộc Buendya trong căn phòng của cụ hay sự trở lại của bóng ma Hose Acadio Buendya giữa cuộc sống hiện thực.

Tất cả làm nên tính đối trọng giữa một bên người chết được tái sinh trong hiện thực khi người sống vẫn luôn cần và nhớ đến họ. Nhưng bản thân những người đang sống lại hoàn toàn mất liên hệ với nhau. Hose Acadio bỏ đi với đoàn người digan biệt tăm biệt tích không một thông tin báo về, rồi anh đột ngột trở lại. Sau khi tự tay mình bắn chết chồng là Hose Acadio, Rebeca tự nhốt mình trong nhà, không bước chân ra ngoài, không tiếp xúc với xã hội; đến nỗi người ta lãng quên bà và tưởng bà đã chết dù Rebeca vẫn sống trong cộng đồng làng Macondo hay cách đại tá Aureliano nhốt mình trong xưởng kim hoàn, Hose Acadio Segundo nhốt mình trong căn phòng của Menkyadet giải mã bức mật thư chính như người sống đã chấp nhận bước chân vào căn phòng chết của gia tộc Buendya.

Như đã nói, mỗi cá nhân trong gia tộc Buendya đã là một sáng tạo huyền thoại: Rebeca đến gia tộc Buendya với chứng thèm ăn đất cùng một ký ức mất mát về cha mẹ ruột; Remediot – Người đẹp sống giữa cuộc đời nhưng bản thân cô như một thực thể vượt ngoài tồn tại thông thường, đến cách cô đi cũng đầy huyền ảo; mối dây liên hệ đầy oan nghiệt giữa Amaranta và Rebeca cùng nỗi đau Amaranta gây ra bởi thói ích kỷ khiến đến cuối đời, bà nhận nhiệm vụ đưa thư cho những người ở dưới suối vàng.

Và từng cá nhân ấy, ngoài là sự song chiếu giữa các đời trước ở trong sự tồn tại của đời sau còn là sự tái tạo các vai diễn trong những Aureliano, Hose Acadio, Ucsula, Amaranta, Remediot… Để cuối cùng, mối dây liên hệ giữa khởi đầu, kết thúc ấy cô đọng lại trong sự lụi tàn của gia tộc Buendya với đứa trẻ cuối cùng được sinh ra có cái đuôi lợn, với những sự thật được phơi bày trong cuốn biên niên suốt một trăm năm của cả gia tộc đã được Menkyadet tiên tri trong cuốn văn tự bằng tiếng Phạn và người cuối cùng đọc nó là Aureliano Babilonia.

Đồng thời với đó, mỗi cá nhân và thậm chí cả làng Macondo đã là một sự tồn tại đầy tính huyền thoại. Macondo, một ngôi làng như tách biệt hoàn toàn với cuộc sống, với hiện thực xã hội bên ngoài. Cả ngôi làng đã từng mắc chứng mất ngủ – dần lãng quên mọi thứ, và rồi đến cuối cùng là mất đi những ký ức lịch sử. Petra Cotet với sự liên hệ giữa đời sống tình dục ảnh hưởng đến sự sinh sôi nảy nở bất thường của gia súc. Hiện tượng mỗi lần xuất hiện đều mang theo những con bướm vàng của Maurixio Balilonia cùng cái chết của anh… Tất cả những sáng tạo ấy của Gabriel Garcia Marquez đã làm nên một làng Macondo độc nhất với những con người, những hiện tượng đầy ly kỳ, huyền ảo.

Qua sự kết hợp sáng tạo và song chiếu huyền thoại trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của Garbriel Garcia Marquez, tác giả đã xây dựng lên cả một thế giới với sự đồ sộ về nhân vật với sự trải rộng không gian, thời gian trong suốt một trăm năm. Mà qua những hiện thực được huyền thoại hóa, G.Marquez tái hiện lên bóng dáng cả một gia tộc với một trăm năm nhưng bóng dáng ai cũng thấm mẫu màu cô đơn. Một gia tộc chìm trong tội loạn luân, giết người, những bóng dáng dẫu cuồng hoan trong dục vọng xác thịt hay tự nhốt mình trong những căn phòng chết, đều bị bủa vây bởi sự cô đơn không lối thoát.

Và chính trong hiện thực đó, chủ nghĩa hiện sinh hiện lên hết sức rõ rệt. Con người cô đơn, mất phương hướng trước cuộc sống mỗi ngày một trở nên vô nghĩa, phi lý. Và sự tàn lụi của làng Macondo, của gia tộc Buendya như sự chấm dứt của những tháng ngày cô đơn, lối sống vị kỷ cùng sự vẫy vùng thoát khỏi bóng đen đơn côi của mỗi con người Acadio, Aureliano, Ucsula, Amaranta, Remediot…

Trước hết, Trăm năm cô đơn là một sự song chiếu huyền thoại: song chiếu cuộc sống ở làng Macondo với cuộc sống đời thực, song chiếu với những sự kiện lịch sử từng xảy ra ở Colombia và Mỹ Latinh với những sự kiện diễn ra trong tiến trình 100 năm của gia tộc Buendya, song chiếu những nguyên mẫu con người có ngoài đời thực với sự hư cấu của con người tiểu thuyết và song chiếu giữa những con người trong gia tộc Buendya với nhau.

Cái có thực trong thời gian ra đời Trăm năm cô đơn vào 1928, khu vực Mỹ La Tinh vốn là một khu vực cổ hủ, lạc hậu. Nhưng khi song chiếu lên làng Macondo, sự cổ hủ, lạc hậu ấy đã được phóng đại, huyền thoại hóa trở nên hư ảo. Những vật dụng hết sức thường nhật và được phổ biến trên thế giới như nam châm, kính lúp, la bàn, nước đá (thời kì đầu), máy hát, xe lửa (thời kì sau)…, được người digan hay đám tư bản mang tới làng Macondo lại trở thành những thứ phù phép, phép màu đối với dân làng ở đây.

Những sự kiện lịch sử, chính trị từng xảy ra ở mảnh đất Gabriel Garcia Marquez sinh sống được tác giả tái hiện trong tác phẩm chân thực tới từng chi tiết. Công cuộc vượt núi băng rừng khai khẩn làng Macondo của cụ tổ gia tộc Buendya; cuộc nội chiến khốc liệt, triền miên giữa hai phe phái: một bên là phái Bảo hoàng, một bên là những người thuộc phái Tự do. Và cuộc chiến tranh này được phản ảnh gần như trong suốt cuộc đời đại tá Aureliano.

Nhưng ngay chính trong những sự kiện bám sát theo tiến trình phát triển của lịch sử đó cũng ẩn chứa những yếu tố huyền thoại được song chiếu vào tác phẩm. Hành trình vượt núi băng rừng, rồi lại vượt rừng băng núi từ làng Macondo về đời thực của cụ tổ Buendya là câu chuyện như lạc vào một mê cung với những yếu tố hoang đường, hư ảo. Cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của đại tá Aureliano khiến ông trở thành huyền thoại, là một trở ngại cho nhà cầm quyền nhưng trong suốt quá trình hoạt động, những trận chiến nổ ra do ông đứng đầu gần như lại chỉ có bại mà không có thắng. Để đến cuối cùng là thất bại hoàn toàn về mặt tinh thần của đại tá Aureliano khi ông chính thức thu mình lại trong cõi cô đơn nơi xưởng kim hoàn chế tác những con cá vàng của ông.

Và hơn cả, sự song chiếu huyền thoại trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn còn là sự song chiếu của chính các huyền thoại trong câu chuyện với nhau. Huyền thoại về gia tộc Buendya, mở đầu bằng sự loạn luân với kết cục đẻ ra đứa con có chiếc đuôi lợn; kết thúc cũng bằng sự loạn luân với đứa con của Aureliano Babilonia và Amaranta Ucsula mang chiếc đuôi lợn.

Trong bóng hình của những người con, người cháu, những người sống ở hiện tại luôn mang hình dáng của người đi trước, người đã khuất qua cách đặt tên bằng những cái tên đã trở thành luật bất thành văn của gia tộc Buendya: Accadio, Aureliano cho con trai và Ucsula, Amaranta, Remediot cho con gái. Cách đặt tên như vậy làm nên tính tuần hoàn, một thứ thời gian lịch sử xoay vòng trong đời sống của gia tộc Buendya. Qua những cái tên ấy là những mảng ký ức đầy cô đơn suốt hơn 100 năm của cả một gia tộc. Mà ký ức ấy, những gì đã chìm vào dĩ vãng, các cái chết lại luôn chẳng ngủ yên, chúng sống trong những cái

tên và hiện hữu ngay trong cuộc sống thực: Sự xuất hiện của bóng ma Prudenxio Aghila, Menkyadet, Hose Acadio Buendya…

Ngoài ra, sự song chiếu còn được thể hiện từ những hình tượng có thực ngoài đời được nhà văn tưởng tượng, đắp nên nó màu sắc huyền thoại đến mức tưởng như vô lý. Như trường hợp của Remediot – Người đẹp. Trong nguyên mẫu đời thực, Remediot không đẹp và cũng chỉ mang thân phận của một người hầu, sự mất tích của cô ta không ai biết là do đâu rồi cuối cùng cô ta đi đâu. Nhưng đến Trăm năm cô đơn, tác giả đã khoác lên nhân vật Remediot – Người đẹp một thân phận mới, nhan sắc mới cùng một sự biến mất đầy huyền ảo.

Bởi thế, với sự song chiếu huyền thoại, Gabriel Garcia Marquez trên nền những sự kiện lịch sử có thật, những con người có thật; ông đã đan cài chúng với những sự kiện, chi tiết hư cấu và tạo nên sử tính cho tiểu thuyết.

Là trăm năm con người vò võ cuộn mình lại với sự trống trải của thời cuộc? Hay là trăm năm tình yêu mãnh liệt nhưng chẳng dũng cảm mà nói ra thành lời?Những con người, những số phận đã được định sẵn trên tấm da thuộc của dòng họ Buendía như chẳng thể thoát khỏi số mệnh “trăm năm cô đơn“. Có người chấp thuận, lãnh cảm sống một đời với không chút cảm xúc vui buồn nào. Có người buông xuôi để mặc cho tình yêu cứ thế vuột mất với tất cả lí do “chính đáng” có thể nghĩ ra. Lại có kẻ gồng mình lên để đấu tranh, cho tình yêu, cho những phức cảm ham muốn bị ngăn trở bởi định kiến tồn tại ở mọi “xã hội văn minh” mà ta vẫn thường thấy. Kết cục nào cho những kẻ đó? Liệu trăm năm cô đơn có phải một lời nguyền chẳng thể hoá giải nổi không? Hay chính những con cháu Buendía đang đời đời kiếp kiếp giam hãm mình trong đó, với những nỗi sợ vô hình khiến họ chẳng dám mạnh mẽ mà nhìn sâu vào những cảm xúc rối bời trong lòng mình?

Bằng khả năng tưởng tượng độc đáo cùng tư duy rành mạch, Gabriel García Márquez đã kể cho người đọc câu chuyện sinh động và hấp dẫn trải qua 7 đời của dòng họ Buendia, với nỗi cô đơn cùng cực và những ham muốn phóng túng đến mức điên dại bộc phát ra bằng những cách thức khác nhau. Sự đan xen nhuần nhuyễn giữa huyền ảo và thực tế cùng những sự kiện, tên riêng chồng chéo của các nhân vật có lẽ là thách thức tuyệt vời cho sự đọc và tư duy của độc giả.

Với tình yêu, với sự phóng khoáng trong những ham muốn thể xác nhưng tâm hồn tràn ngập sự cô đơn, Gabriel García Márquez đã cho độc giả thấy tất cả những triết lý và những vô lý của cuộc đời. Những khát vọng tưởng chừng như chính nghĩa trong cuộc chiến tranh, của người lãnh đạo được tôn sùng, tất thảy cũng chỉ là những chết chóc, những máu me, những ảo tưởng về thời cuộc, về quyền lực sinh sát của một kẻ với trái tim trống rỗng. Hay chính kẻ đó vào trăm năm sau, lại bị sự tàn khốc của thời gian đánh gục, khi người đời chất vấn nhau về sự tồn tại của con người ấy, về giai thoại ấy như những lời ma mị của chính phủ đương thời.

Trăm năm, hay hơn cả trăm năm, là một sự hồi vọng, cho những huy hoàng, những tan vỡ, những hạnh phúc cùng đớn đau đi qua 43 kiếp người. Cảm ơn ba dịch giả Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi và Nguyễn Quốc Dũng đã truyền tải lại ngòi bút phóng khoáng, trữ tình nhưng đầy sâu cay và châm biếm trong áng văn chương này của Gabriel García Márquez.

Đối với cá nhân tôi, Trăm năm cô đơn có vị trí danh dự trong danh sách các tác phẩm văn chương phải đọc trong đời. Bởi những quy luật, những triết lý sâu sắc, những bài học vô nghĩa tất thảy đều được gửi gắm nơi đây.

Đây là cuốn tiểu thuyết ám ảnh mình nhiều nhất. Câu chuyện như quỷ dị khi kể về dòng họ Buyendia mang tội loạn luân giữa không gian ngôi làng Macondo hẻo lánh, lạc hậu, trì độn. Đằng sau câu chuyện về dòng họ tha hương là nỗi ám ảnh về một thân phận Mỹ Latin bị bỏ quên bên lề lịch sử, xa xôi về địa lý, lạc hậu về kinh tế, khoa học kỹ thuật… Nó còn có giá trị về cả chính trị, tôn giáo khi mà trong xuất hiện nhiều những chi tiết về 32 cuộc chiến vô nghĩa của Aureliano, cuộc đàn áp 3000 công nhân đồn điền chuối như bức tranh phản ánh sự xâm lấn của người da trắng vừa mang tới văn minh cho người da đỏ nhưng đồng thời cũng mang tới nỗi đau tộc loại cho người Mỹ LT.

Cuộc trốn chạy của vợ chồng nhà Jose Acadio và Ucsula giống như cuộc chạy trốn của người da đỏ khi bị người da trắng dồn vào rừng sâu, thu hẹp k gian khiến họ xảy ra những mối quan hệ loạn luân và đó là nguyên nhân của sự tuyệt diệt….

Nói chung mình đọc và cảm nhận được những điều đó dựa trên sự tìm hiểu về lịch sử, địa lý, văn hóa, tâm lý, chính trị, tôn giáo…còn nhiều điều nữa nhưng không chia sẻ hết được. Cuốn này hay cực!

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN

Là trăm năm con người vò võ cuộn mình lại với sự trống trải của thời cuộc? Hay là trăm năm tình yêu mãnh liệt nhưng chẳng dũng cảm mà nói ra thành lời?

Những con người, những số phận đã được định sẵn trên tấm da thuộc của dòng họ Buendía như chẳng thể thoát khỏi số mệnh "trăm năm cô đơn". Có người chấp thuận, lãnh cảm sống một đời với không chút cảm xúc vui buồn nào. Có người buông xuôi để mặc cho tình yêu cứ thế vuột mất với tất cả lí do "chính đáng" có thể nghĩ ra. Lại có kẻ gồng mình lên để đấu tranh, cho tình yêu, cho những phức cảm ham muốn bị ngăn trở bởi định kiến tồn tại ở mọi "xã hội văn minh" mà ta vẫn thường thấy. Kết cục nào cho những kẻ đó? Liệu trăm năm cô đơn có phải một lời nguyền chẳng thể hoá giải nổi không? Hay chính những con cháu Buendía đang đời đời kiếp kiếp giam hãm mình trong đó, với những nỗi sợ vô hình khiến họ chẳng dám mạnh mẽ mà nhìn sâu vào những cảm xúc rối bời trong lòng mình?

Bằng khả năng tưởng tượng độc đáo cùng tư duy rành mạch, Gabriel García Márquez đã kể cho người đọc câu chuyện sinh động và hấp dẫn trải qua 7 đời của dòng họ Buendía, với nỗi cô đơn cùng cực và những ham muốn phóng túng đến mức điên dại bộc phát ra bằng những cách thức khác nhau. Sự đan xen nhuần nhuyễn giữa huyền ảo và thực tế cùng những sự kiện, tên riêng chồng chéo của các nhân vật có lẽ là thách thức tuyệt vời cho sự đọc và tư duy của độc giả. 

Với tình yêu, với sự phóng khoáng trong những ham muốn thể xác nhưng tâm hồn tràn ngập sự cô đơn, Gabriel García Márquez đã cho độc giả thấy tất cả những triết lý và những vô lý của cuộc đời. Những khát vọng tưởng chừng như chính nghĩa trong cuộc chiến tranh, của người lãnh đạo được tôn sùng, tất thảy cũng chỉ là những chết chóc, những máu me, những ảo tưởng về thời cuộc, về quyền lực sinh sát của một kẻ với trái tim trống rỗng. Hay chính kẻ đó vào trăm năm sau, lại bị sự tàn khốc của thời gian đánh gục, khi người đời chất vấn nhau về sự tồn tại của con người ấy, về giai thoại ấy như những lời ma mị của chính phủ đương thời. 

Trăm năm, hay hơn cả trăm năm, là một sự hồi vọng, cho những huy hoàng, những tan vỡ, những hạnh phúc cùng đớn đau đi qua 43 kiếp người. Cảm ơn ba dịch giả Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi và Nguyễn Quốc Dũng đã truyền tải lại ngòi bút phóng khoáng, trữ tình nhưng đầy sâu cay và châm biếm trong áng văn chương này của Gabriel García Márquez. 

Đối với cá nhân tôi, "Trăm năm cô đơn" có vị trí danh dự trong danh sách các tác phẩm văn chương phải đọc trong đời. Bởi những quy luật, những triết lý sâu sắc, những bài học vô nghĩa tất thảy đều được gửi gắm nơi đây.

Review thì đã có rất nhiều bạn review hay, mình chỉ hé một góc nhìn nhỏ xíu dành cho nhân vật mình thích.

_Đôi lời lên lộ (hoặc là phi lộ)_ 😎

Hôm rồi đọc "Ba gã cùng thuyền", trên lộ trình đi thuyền dọc sông Thames, 3 nhân vật chính ghé thăm một mê cung và khi bước vào đã gặp ngay các du khách vào trước và mắc kẹt trong đó, họ đánh giá thấp sự phức tạp của mê cung và sự tự tin ban đầu nhanh chóng biến đi đâu mất, đơn giản là…tất cả đều bị lạc. Anh chàng hướng dẫn trẻ măng đứng bên ngoài quan sát, thấy thế chạy vào giải cứu và…kẹt luôn ở trỏng…cho tới khi một ông già làm việc ở đó nhiều năm quay trở lại, thì cả đám mới được dắt ra trong trạng thái hoang mang lẫn vui mừng.

Khi tôi đọc đến đó thì tự dưng tôi nghĩ tới cuốn "Trăm năm cô đơn", nhớ đến cảm giác bứt rứt và lẩn quẩn khi đọc nó, mặc dù mình chỉ là người đứng phía ngoài quan sát, họ thì đang chạy lòng vòng trong mê lộ được đặt ở xứ Macondo, mê lộ mà kết thúc như thể xoắn vòng về với khởi đầu. Hơn 60 nhân vật cả chính lẫn phụ đều có những nét đặc sắc rất riêng, mỗi người nhà Buandía đều trốn mình vào một góc mê lộ riêng mình. Nhưng nếu nói nhớ đến ai nhất, khoảnh khắc nào nhất, thì đó chính là Remedios Người đẹp và khoảnh khắc thiên thần ấy bay lên trời. Trong đầu mình lúc đó có những thước phim rất chậm, huyền ảo và khó quên.

Sự vượt thoát của Remedios người đẹp cho thấy rằng một cánh cửa hi vọng nào đó vẫn luôn ở đó, sẵn sàng mở ra nếu người ta có can đảm buông bỏ. Cảm giác của ta lúc đó không hẳn có thể gọi là thống khoái, nhưng cũng 5-7 phần khoái trá: ừ, tại sao phải ở lại giữa những thành vách lạnh lẽo, xù xì được chính con người dựng lên, sao ta không bay lên đi để tự giải thoát khỏi mê lộ ấy, xem nhân gian tiếp tục chạy lòng vòng bên dưới thế nào.

Chỉ riêng hành động đó thôi là một cái rũ mạnh, một sự tháo xoắn ngọt ngào đối với dòng cảm xúc và suy tưởng đang cuốn theo mạch truyện của người đọc.

Remedios Người đẹp không để tâm chuyện mình đẹp, không quan tâm những lời ca tụng, cũng không ghét bỏ hay xua đuổi hoặc niềm nở với những kẻ chỉ vì vẻ ngoài tuyệt mỹ của nàng mà tìm đến, nàng bình thản luôn luôn (vì thế nàng lại càng thu hút!), nàng chính là kẻ ngoại cuộc trong Trăm năm cô đơn, một kẻ ngoại cuộc hạnh phúc.